8.2.2. Phương pháp phỏng vấn
Phương pháp này sử dụng để thu thập thông tin về thực trạng quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh của BGH, Đoàn TN, Tổng phụ trách Đội, giáo viên chủ nhiệm và đại diện cha mẹ học sinh trường THCS Kim Đức.
8.2.3. Phương pháp chuyên gia
Đây là phương pháp mà tác giả lấy ý kiến của các chuyên gia nhằm trao đổi, thu thập số liệu từ đó đánh giá thực trạng đạo đức, thực trạng quản lý hoạt động GDĐĐ cho HS. Tác giả cũng xem xét mức độ cần thiết khả thi thực hiện biện pháp đã đề ra.
8.3. h ơng pháp th ng kê toán học.
Phương pháp thống kê toán học để xử lý các số liệu điều tra thu được.
9. Những đóng góp của đề tài
9.1. ề lý luận
Luận văn làm sáng tỏ các khái niệm nội hàm về đạo đức, các đặc trưng biểu hiện trong bối cảnh kinh tế - xã hội hiện nay. Các giá trị chuẩn mực đạo đức cần có, các đặc trưng về đạo đức nói chung và đạo đức cho HS trong trường THCS nói riêng.
9.2. ề thực tiễn
Có thể bạn quan tâm!
- Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh trường trung học cơ sở Kim Đức, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ theo định hướng chương trình giáo dục phổ thông mới - 1
- Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh trường trung học cơ sở Kim Đức, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ theo định hướng chương trình giáo dục phổ thông mới - 2
- Hoạt Động Giáo Dục Đạo Đức Cho Học Sinh Trường Thcs Theo Chương Trình Giáo Dục Phổ Thông Mới
- Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Đạo Đức Cho Học Sinh Trường Thcs
- Iều Ki N Kinh Tế - Văn Hóa- Xã Hội Phong Tục Tập Quán Của Đ A Ph Ơng Điều Kiện Kinh Tế, Văn Hóa, Xã Hội Của Địa Phương, Của Gia Đình Có Ảnh Hưởng
Xem toàn bộ 152 trang tài liệu này.
Qua quá trình khảo sát và phân tích thực trạng, luận văn đã chỉ ra những tồn tại bất cập trong việc quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh trường THCS Kim Đức, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ hiện nay, từ đó tìm ra nguyên nhân của thực trạng này.
Xây dựng các giải pháp nhằm cải tiến quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh các trường THCS nói chung và ở trường THCS Kim Đức, thành phố Việt Trì nói riêng.
Làm rõ được mối quan hệ giữa nhà trường, gia đình và xã hội trong các hoạt động GDĐĐ cho HS trong trường THCS. Vai trò, vị trí của từng bộ phận, mối quan hệ gắn kết giữa các bên có liên quan đến hoạt động GDĐĐ cho HS.
10. Cấu trúc luận văn
Luận văn gồm ngoài nội dung phần mở đầu, kết luận, khuyến nghị, tài liệu tham khảo, phụ lục thì luận văn gồm có 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh trung học cơ sở theo định hướng chương trình giáo dục phổ thông mới
Chương 2: Thực trạng quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh trường trung học cơ sở Kim Đức, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ theo định hướng chương trình giáo dục phổ thông mới
Chương 3: Biện pháp quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh trường trung học cơ sở Kim Đức, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ theo định hướng chương trình giáo dục phổ thông mới
Kết luận – khuyến nghị Tài liệu tham khảo
Phụ lục.
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ THEO ĐỊNH HƯỚNG CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC PHỔ THÔNG MỚI
1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề
Vấn đề đạo đức và GDĐĐ đã được các nhà triết học nổi tiếng nghiên cứu. Ở phương Đông, điển hình là Khổng Tử (551 – 479TCN), nhà triết học nổi tiếng của Trung Quốc, người khai sinh ra Nho học. Ông coi giáo dục đạo đức là yêu cầu vô cùng quan trọng, có tính hệ thống về phương pháp giáo dục cũng như về tâm lý học. Trong Tứ Thư và Ngũ kinh có ghi lại nội dung Nho Giáo. Nhưng cụ thể và tập trung nhất trong năm tác phẩm: “Kinh dịch, Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Xuân Thu” rất xem trọng việc giáo dục đạo đức. Học thuyết “Nhân – Trí – Dũng”, trong đó “Nhân” là thương người, là yếu tố cốt lõi và là đạo đức cơ bản của con người. Trên lập trường của nhà giáo dục học ông đã có chủ trương nổi tiếng để truyền lại đến ngày nay “Lễ trị”, lấy “Lễ” để cư xử. Để đạt được những tư tưởng đạo đức như vậy con người phải biết tu thân làm gốc.
Nhà triết học phương Tây Sorates (470 – 399 TCN) đã khẳng định đạo đức và sự hiểu biết quy định lẫn nhau. Người có đạo đức tốt hành vi và hiểu biết sẽ tốt, do vậy chỉ sau khi có hiểu biết mới trở thành có đạo đức. Tư tưởng đạo đức của Socrates là tri thức và đạo đức là một nghĩa, muốn sống phải tri thức và chỉ cần có tri thức đồng thời sống có nhân đức.
Nhà triết học người Anh John Locke (1632-1704) đã nghiên cứu về GDĐĐ rất sâu sắc, ông đã đề cập đến vấn đề giáo dục toàn diện vào thời bấy giờ, ông nhấn mạnh đặc biệt vị trí của thể dục và đức dục.
Học thuyết Mác – Lênnin đã nghiên cứu sâu sắc về vấn đề đạo đức, coi đạo đức là một hình thái xã hội có nguồn gốc từ lao động sản xuất và đời sống
cộng đồng xã hội nên sẽ phản ánh và chịu sự chi phối của tồn tại xã hội. Vào thế kỷ XX, vấn đề đạo đức cũng đã được một số nhà giáo dục Xô Viết nghiên cứu trong việc giáo dục học sinh, đặt nền tảng cho việc GDĐĐ mới trong giai đoạn xây dựng CNXH ở Liên Xô thời bấy giờ. Điển hình có nhà sư phạm A.C.Macarenco đã đề cập các vấn đề giáo dục công dân trong tác phẩm “Bài ca sư phạm”. Ông đã đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò của GDĐĐ và các biện pháp giáo dục đúng đắn, đó là giáo dục bằng phương pháp nêu gương, giáo dục bằng tập thể và thông qua tập thể.
Ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người quan tâm đặc biệt đến giáo dục đạo đức cho cán bộ, học sinh. Từ quan điểm đề cao vai trò của đạo đức: “Có tài mà không có đức là người vô dụng”, Người luôn luôn coi trọng mục tiêu, nội dung giáo dục đạo đức trong các nhà trường luôn đề cao: “Đoàn kết – Kỷ luận – Khiêm tốn – Thật thà – Dũng cảm”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cho rằng đạo đức là nền tảng hình thành nên nhân cách một con người. Chủ Tịch Hồ Chí Minh còn căn dặn Đảng ta phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho đoàn viên, thanh niên và học sinh, giúp họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng’’ vừa “chuyên”, trong sách Hồ Chí Minh [26].
Từ tư tưởng đạo đức của Người, Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam, trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Trường Đại học Giáo dục đã có nhiều đóng góp quan trọng vào lĩnh vực này như các tác giả: Nguyễn Đức Minh, Hà Thế Ngữ, Phạm Hoàng Gia, Hà Tăng Nhật, Nguyễn Thị Mỹ Lộc … và nhiều tác giả khác.
Để có thể hiểu và đưa ra các giải pháp về đạo đức các tác giả đã tìm được nhiều cách tiếp cận khác nhau và những nghiên cứu đó đã tạo nên sự phong phú về nội dung và phương pháp nghiên cứu. Hai tác giả Hà Thế Ngữ và Bùi Đức Thiệp [30] đã nghiên cứu về vấn đề tổ chức quá trình giáo dục đạo đức thông qua các môn học khoa học xã hội và nhân văn, giáo dục thế
giới quan, nhân sinh quan, bồi dưỡng ý thức đạo đức cách mạng,hướng dẫn hành vi đạo đức cho học sinh.
Tác giả Phạm Minh Hạc [14] đã nghiên cứu về đạo đức trong cấu trúc nhân cách, thực hiện giáo dục trong phát triển nhân cách. Công trình nghiên cứu của ông và các cộng sự về phát triển toàn diện cho con người Việt Nam ở thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã làm rõ vấn đề đạo đức, giáo dục đạo đức và các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức trong giai đoạn hiện nay. Từ đó đưa ra tác giả đã đưa ra nhiều sự tiếp cận khác nhau nhằm tạo nên sự phong phú về nội dung và phương pháp nghiên cứu của mình.
Tác giả Hà Nhật Thăng [36] đã đề cập đến những vấn đề như: phương pháp luận của giáo dục và đạo đức, xây dựng các chuẩn mực đạo đức cho con người Việt Nam trong thời kỳ CNH, HĐH và đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức trong giai đoạn hiện nay. Nhìn chung tác giả đã có sự nghiên cứu về mối quan hệ giữa nhận thức khoa học với giáo dục đạo đức, những biểu hiện nhân cách trong lối sống hiện đại. Trong những năm gần đây nhiều tác giả đã nghiên cứu và nhận thấy một hiện tượng suy thoái về đạo đức cho một số thanh niên đã có những bài viết rất đáng quan tâm. Một số tác giả khác đã nghiên cứu về hoạt động giáo dục đạo đức và đã cho thấy các thành quả nghiên cứu qua các bài báo, luận án tiến sĩ và luận văn thạc sĩ. Cụ thể:
Hai tác giả Phạm Khắc Chương và Hà Nhật Thăng đã đề cập đến các vấn đề giáo dục đạo đức nhằm giúp giáo viên có một cơ sở vững chắc trong dạy và học cho học sinh. Các tác giả đã bàn nhiều về vấn đề giáo dục đạo đức như phạm trù giáo dục trong gia đình, nhà trường, bạn bè, tình yêu … từ đó tác giả nhận định một số phương pháp giảng dạy và giáo dục đạo đức cho học sinh trong trường phổ thông [9, tr.56]
Khi nghiên cứu về vấn đề giáo dục đạo đức các tác giả đã đề cập đến mục tiêu, phương pháp đạo đức và một số vấn đề trong công tác quản lý giáo dục đạo đức hiện nay.
Tác giả Phạm Minh Hạc đã đưa ra quan điểm và nhận định của mình trong tác phẩm “Về phát triển toàn diện con người ở thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa” về nguyên nhân thực trạng đạo đức cho học sinh hiện nay, từ đó nêu lên những mục tiêu và giải pháp đạo đức cho con người Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước [14, tr.150]
Trên báo Giáo dục và thời đại số đặc biệt vào tháng 5 năm 2012 tác giả Đặng Quốc Bảo đã có bài viết “Rèn luyện lòng tự trọng trong giáo dục hiện nay” và khẳng định “Các gia đình, các nhà trường và đoàn thể trong xã hội đã có nhiều cố gắng trong giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ, cho các thành viên. Tuy nhiên, nội dung giáo dục đạo đức chủ yếu mới chỉ chú trọng đến việc hướng ngoại mà chưa chú trọng đến giáo dục các nội dung cốt lõi bên trong. Chiến lược giáo dục nước ta trong thời kỳ đổi mới, mục tiêu Nhân cách – Nhân lực của nền giáo dục nước ta trong thời kỳ đổi mới cần nhấn mạnh chủ đề này trong các bài học về đạo đức làm người cho thế hệ trẻ” [2, tr.4].
Trong những năm gần đây, có nhiều luận văn, luận án đề cập nghiên cứu vấn đề đạo đức và vấn đề giáo dục đạo đức cho học sinh như Huỳnh Thị Kim Anh: “Công tác quản lý của Hiệu trưởng trong việc tổ chức GDĐĐ cho học sinh ở các trường THCS huyện Hồng Ngự, Đồng Tháp”; Trần Diệu Hương: “ Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức học sinh các trường trung học cơ sở trên địa bàn huyện Nam Trực – tỉnh Nam Định”.
Nhìn chung các nghiên cứu đề tài trên đều đi sâu vào các nội dung GDĐĐ, định hướng các giá trị đạo đức, các biện pháp GDĐĐ cho học sinh THCS. Tuy nhiên, đối với hoạt động quản lý GDĐĐ cho HS các trường THCS trên địa bàn thành phố Việt Trì, tỉnh Phú thọ nói chung và cho HS trong trường THCS Kim Đức nói riêng chưa được đề cập đến nhiều và chưa thực sự đi sâu. Từ thực trạng trên tác giả đã lựa chọn đề tài “Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh trường THCS Kim Đức, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ theo định hướng chương trình giáo dục phổ thông mới” với hy vọng
đây là sự kế thừa cần thiết trong các nghiên cứu đi trước và góp phần nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức cho HS trường THCS Kim Đức và các trường THCS trên địa bàn tỉnh Phú Thọ.
1.2. Các khái niệm cơ bản về quản lý hoạt động giáo dục đạo đức
1.2.1. Quản lý v quản lý nh tr ng
1.2.1.1. Quản lý
Quản lý là thuật ngữ gồm hai quá trình “quản – lý”. Trong đó “quản” là coi sóc, là giữ gìn, duy trì ở trạng thái “ổn định”, “lý” bao gồm sự điều chỉnh, sắp xếp, đổi mới đưa vào thế “phát triển”.
Theo từ điển Tiếng Việt “Quản lý là tổ chức, điều khiển hoạt động cho một đơn vị, tổ chức” [41].
Tác giả Nguyễn Văn Lê đã nghiên cứu và nhận định quản lý là công việc vừa mang tính khoa học lại vừa mang tính nghệ thuật.
Ông viết “ Quản lý một hệ thống xã hội là khoa học và nghệ thuật tác động vào hệ thống mà chủ yếu là vào những con người nhằm đạt hiệu quả tối ưu theo mục đích đề ra” [22].
Tác giả Trần Kiểm lại nhận định quản lý là nhằm phù hợp nỗ lực của nhiều người sao cho mục tiêu của từng cá nhân trở thành thành tựu của xã hội [20].
Quản lý là tác động của chủ thể trong việc huy động, phát huy kết hợp, sử dụng, điều chỉnh, phối hợp các nguồn lực trong và ngoài nhằm tổ chức một cách tối ưu nhằm đạt mục đích của tổ chức với hiệu quả cao nhất.
Quản lý phản ánh một hoạt động lao động trí tuệ của con người có chức năng đảm bảo và khuyến khích những nỗ lực của những người khác để thực hiện thành công công việc nhất định. Quản lý là sự phối hợp có hiệu quả hoạt động của những cộng sự có cùng chung một mục tiêu, cùng chung một tổ chức. Quan niệm hiện đại về quản lý đã thừa nhận sự huy động, tổ chức và thực thi các nguồn lực vật chất và tinh thần để sử dụng chúng nhằm tác động và gây ảnh hưởng tích cực đến những người xung quanh để nhằm đạt được mục tiêu của tổ chức hay cộng đồng.
Quản lý là một quá trình tác động có tổ chức, có mục đích của chủ thể quản lý lên khách thể và các đối tượng quản lý nhằm sử dụng có hiệu quả các tiềm năng, các cơ hội của tổ chức để đạt được mục tiêu đặt ra trong điều kiện biến động của môi trường.
1.2.1.2. Quản lý nhà trường
Trường học là một tổ chức, ở đó tiến hành các hoạt động dạy học. Hoạt động đặc trưng của nhà trường là hoạt động dạy và hoạt động học. Đây là hoạt động có tổ chức, có nội dung, có phương pháp và phương tiện, có mục đích có sự lãnh đạo của các nhà giáo dục, có sự hoạt động tích cực, tự giác của người học.
Khái niệm quản lý nhà trường đã được nhiều tác giả trong và ngoài nước diễn tả theo nhiều góc độ khác nhau.
Tác giả M.I. Kondacov đã khái quát “ Không đòi hỏi một định nghĩa hoàn chỉnh, chúng ta hiểu quản lý nhà trường là một hệ thống xã hội- sư phạm chuyên biệt. Hệ thống này đòi hỏi những tác động có ý thức, có kế hoạch và định hướng của chủ thể quản lý đến tất cả các mặt của đời sống nhà trường, nhằm đảm bảo sự vận hành tối ưu về các mặt xã hội – kinh tế, tổ chức sư phạm của quá trình dạy – học và giáo dục thế hệ đang lớn lên ” [25].
Tác giả Nguyễn Ngọc Quang cho rằng: “Quản lý nhà trường là những tác động tối ưu của chủ thể quản lý đến tập thể Gv, HS và cán bộ nhằm tận dụng các nguồn lực dự trữ do nhà nước đầu tư, lực lượng xã hội đóng góp và do lao động xây dựng vốn tự có, hướng vào việc đẩy mạnh mọi hoạt động của nhà trường mà điểm hội tụ là quá trình đào tạo thế hệ trẻ. Thực hiện có chất lượng, mục tiêu và kế hoạch đào tạo, đưa nhà trường tiến tới trạng thái mới” [31, tr.34].
Theo tác giả Phạm Viết Vượng lại cho rằng: “ Quản lý trường học là lao động của các cơ quan quản lý nhằm tập hợp và tổ chức các hoạt động của G và các lực lượng khác, cũng như huy động tối đa các nguồn lực giáo dục và đào tạo trong nhà trường ” [40, tr.17-19].