Quản Lý, Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Đạo Đức

Nhìn chung các đề tài nghiên cứu trên đi sâu vào việc xác định các nội dung giáo dục đạo đức, định hướng các giá trị đạo đức, các biện pháp giáo dục đạo đức cho HS THPT. Đặc biệt, hiện nay chưa có đề tài nào nghiên cứu về những biện pháp quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho HS THPT dân lập nói chung và HS THPT Văn Hiến nói riêng. Vì vậy, tác giả chọn đề tài “Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho HS tại trường THPT Văn Hiến, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội” với hy vọng đây là sự kế thừa cần thiết các nghiên cứu đi trước và cùng góp phần thêm công sức và sự vận dụng hệ thống lý luận quản lý giáo dục nhằm góp phần nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức HS trường THPT Văn Hiến, cũng như các trường THPT dân lập trên địa bàn thành phố Hà Nội.

1.2. Một số khái niệm cơ bản

1.2.1. Đạo đức và giáo dục đạo đức

* Đạo đức:

Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội “Đạo đức là những tiêu chuẩn, nguyên tắc được dư luận xã hội thừa nhận, quy định hành vi, quan hệ con người đối với nhau và đối với xã hội" [26, tr.297].

Theo tác giả Phạm Khắc Chương, Hà Nhật Thăng: “Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội nhờ đó mà con người tự giác điều chỉnh hành vi của mình sao cho phù hợp với lợi ích con người và với tiến bộ xã hội trong quan hệ giữa con người với con người, giữa cá nhân và xã hội" [9, tr.4].

Dưới góc độ Triết học, đạo đức là một trong những hình thái sớm nhất của ý thức xã hội, bao gồm những nguyên lý, quy tắc, chuẩn mực điều tiết hành vi của con người trong quan hệ với người khác và với cộng đồng. Căn cứ vào những quy tắc ấy, người ta đánh giá hành vi, phẩm giá của mỗi người bằng các quan niệm về thiện ác, chính nghĩa và phi nghĩa, nghĩa vụ, danh dự [17, tr.145].

Dưới góc độ Đạo đức học, đạo đức là một hình thái ý thức xã hội đặc biệt bao gồm một hệ thống các quan điểm, quan niệm, những quy tắc, nguyên tắc, chuẩn mực xã hội [17, tr12].

Dưới góc độ Giáo dục học, đạo đức là một mặt của nhân cách, bao gồm một hệ thống các quan niệm về cái thiện, cái ác, cái tốt, cái xấu… trong mối quan hệ của con người với con người [17, tr.170-171].

Theo nghĩa rộng, khái niệm đạo đức liên quan chặt chẽ với phạm trù chính trị, pháp luật, lối sống. Đạo đức là thành phần cơ bản của nhân cách, phản ánh bộ mặt nhân cách của một cá nhân đã được xã hội hoá. Đạo đức được biểu hiện ở cuộc sống tinh thần lành mạnh, trong sáng, ở hành động giải quyết hợp lý, có hiệu quả những mâu thuẫn. Khi thừa nhận đạo đức là một hình thái ý thức xã hội thì đạo đức của mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng, mỗi tầng lớp giai cấp trong xã hội cũng phản ánh ý thức chính trị của họ đối với các vấn đề đang tồn tại [10, tr153-154]. Ngày nay, đạo đức được định nghĩa như sau: “Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội đặc biệt bao gồm một hệ thống những quan điểm, quan niệm, những quy tắc, nguyên tắc, chuẩn mực xã hội. Nó ra đời, tồn tại và biến đổi từ nhu cầu của xã hội, nhờ đó con người tự giác điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với lợi ích, hạnh phúc của con người và sự tiến bộ của xã hội trong mối quan hệ giữa con người với con người, giữa cá nhân và xã hội”[17, tr12 ].

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 137 trang tài liệu này.

Bản chất đạo đức là những quy tắc, những chuẩn mực trong quan hệ xã hội, nó được hình thành, tồn tại và phát triển trong cuộc sống, được xã hội thừa nhận và tự giác thực hiện. Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội phản ánh những quan hệ xã hội được hình thành trên cơ sở kinh tế, xã hội. Mỗi hình thái kinh tế hay mỗi giai đoạn đều có những nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức tương ứng. Vì vậy, đạo đức có tính giai cấp, tính dân tộc và tính thời đại. Nghĩa là những giá trị đạo đức của ngày hôm qua nhưng lại không phù hợp với ngày hôm nay hoặc có những giá trị đạo đức phù hợp với giai cấp này nhưng lại không phù hợp với giai cấp khác, dân tộc khác.

Ngày nay trong nền kinh tế thị trường và sự hội nhập quốc tế, thì khái niệm đạo đức cũng có thay đổi theo tư duy và nhận thức mới. Tuy nhiên, không có nghĩa là các giá trị đạo đức cũ hoàn toàn mất đi, thay vào đó là các giá trị đạo đức mới. Theo quan điểm của Đảng và Nhà nước ta, các giá trị đạo đức hiện nay là sự kết hợp sâu sắc truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc với xu hướng tiến bộ của thời đại, của nhân loại. Đó là tinh thần cần cù lao động, sáng tạo, tình yêu quê hương đất nước gắn liền với chủ nghĩa xã hội, sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật, có nếp sống văn minh, có tinh thần nhân đạo và tinh thần quốc tế cao cả. Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, chịu sự chi phối của điều kiện kinh tế vật chất xã hội, đồng thời nó cũng có quan hệ tương tác với các hình thái ý thức xã hội khác như pháp luật, văn hoá, nghệ thuật, giáo dục, khoa học... Vì vậy trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách có 3 thành tố: Hành vi đạo đức, hành vi pháp luật, hành vi văn hoá được coi là phẩm đức của con người hoàn thiện gồm hai mặt đức và tài. Trong đó hành vi đạo đức được đánh giá là thành tố quan trọng nhất, tốt đẹp nhất theo triết lý: “Pháp luật là đạo đức tối thiểu. Đạo đức là pháp luật tối đa”.

Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh tại trường trung học phổ thông văn hiến quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội - 3

Theo triết lý pháp luật và đạo đức là hai bậc thang của một hành vi liên quan chặt chẽ với nhau cùng một mục đích làm điều thiện, tránh điều ác. Pháp luật là đạo đức tối thiểu, chung quy lại là không được làm điều ác. Đạo đức là pháp luật tối đa, chung quy lại là không những không làm điều ác mà cần tự nguyện làm điều thiện đem lại lợi ích vật chất hay tinh thần cho người khác.

Xuất phát từ mối liên hệ biện chứng giữa các hình thái ý thức đã trình bày ở trên thì việc giáo dục đạo đức trong nhà trường cần được hiểu theo một khái niệm rộng là bao gồm hành vi đạo đức, hành vi pháp luật và hành vi văn hoá.

* Giáo dục:

Trước hết giáo dục là hoạt động hay quá trình được tổ chức một cách có hệ thống có mục đích với nội dung, phương pháp, phương tiện nhằm tác

động đến sự phát triển tinh thần, thể chất của nhóm đối tượng nào đó, làm cho họ dần dần có được những phẩm chất và năng lực như yêu cầu đề ra.

Giáo dục theo nghĩa hẹp là một trong hai quá trình bộ phận tạo nên quá trình sư phạm tổng thể. Theo cách hiểu này thì hoạt động giáo dục tác động trực tiếp đến hệ thống giá trị, tư tưởng, tình cảm, đạo đức của đối tượng giáo dục.

Như vậy, có thể hiểu: Giáo dục là hoạt động hướng tới con người thông qua một hệ thống các biện pháp tác động nhằm truyền thụ những tri thức và kinh nghiệm, rèn luyện kỹ năng và lối sống, bồi dưỡng tư tưởng và đạo đức cần thiết cho đối tượng, giúp hình thành và phát triển năng lực, phẩm chất, nhân cách phù hợp với mục đích, mục tiêu chuẩn bị cho đối tượng tham gia lao động sản xuất và đời sống xã hội.

* Giáo dục đạo đức:

Giáo dục đạo đức là tác động có ý thức nhằm hình thành cho con người ý thức, tình cảm, động cơ và hành vi đạo đức đúng đắn, trên cơ sở giúp họ tiếp thu được các quan điểm, nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức cơ bản của xã hội và giúp họ thể hiện các quan điểm, nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức trong hoạt động sống (hệ thống hành vi, hành động, thói quen…) của cá nhân. Dựa trên các quan điểm, nguyên tắc ấy con người phân biệt, lựa chọn các quan hệ đạo đức đúng đắn, phê phán những hành vi đạo đức không phù hợp với yêu cầu xã hội.

Giáo dục đạo đức HS là một quá trình được thực hiện trong nhà trường, có tính liên tục về thời gian và không gian, do nhiều lực lượng xã hội tham gia, trong đó nhà trường đóng vai trò then chốt.

Theo giáo sư Hà Thế Ngữ và Đặng Vũ Hoạt: “Giáo dục đạo đức là quá trình biến các chuẩn mực đạo đức, từ những đòi hỏi bên ngoài của xã hội đối với cá nhân thành những đòi hỏi bên trong của bản thân, thành niềm tin, nhu cầu, thói quen của người được giáo dục”. [15]

Giáo dục đạo đức trong trường phổ thông là một bộ phận của của quá

trình giáo dục toàn diện có quan hệ biện chứng với các quá trình giáo dục khác như giáo dục trí tuệ, giáo dục thẩm mỹ, giáo dục thể chất, giáo dục lao động và giáo dục hướng nghiệp nhằm hình thành cho HS niềm tin, thói quen, hành vi, chuẩn mực đạo đức.

Giáo dục đạo đức là tác động có ý thức nhằm hình thành cho con người có ý thức, tình cảm, động cơ và hành vi đạo đức đúng đắn, trên cơ sở giúp họ tiếp thu được các quan điểm nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức cơ bản của xã hội và giúp họ thể hiện các quan điểm, nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức trong hoạt động sống của cá nhân. Dựa trên các quan điểm, nguyên tắc ấy con người phân biệt, lựa chọn các quan hệ đạo đức đúng đắn, phê phán những hành vi đạo đức không phù hợp với yêu cầu xã hội. Giáo dục đạo đức cho HS bao gồm tác động của nhiều yếu tố khách quan và chủ quan, bên ngoài và bên trong, là quá trình được thực hiện có tính liên tục về thời gian, không gian, do nhiều lực lượng xã hội tham gia, trong đó nhà trường đóng vai trò then chốt. Có thể hiểu rằng có bao nhiêu mối quan hệ trong nhà trường, gia đình và xã hội mà HS tham gia hoạt động thì có bấy nhiêu yếu tố tác động đến HS. Mỗi lực lượng có tầm quan trọng, có nhiệm vụ, có phương pháp và tính ưu việt riêng:

+ Gia đình là tế bào xã hội, là nơi lưu giữ và phát triển vững chắc nhất giá trị truyền thống. Từ gia đình có thể giáo dục tất cả các lứa tuổi lòng kính yêu cha mẹ, người thân trong gia đình, yêu thương đồng loại. Gia đình hạnh phúc dựa trên nguyên tắc cơ bản là mọi người đều phải yêu thương quý mến nhau, giúp đỡ nhau trong công việc và là chỗ dựa tinh thần cho mỗi thành viên.

+ Nhà trường là một tổ chức xã hội đặc thù với cấu trúc tổ chức chặt chẽ, có nhiệm vụ chuyên biệt là giáo dục, đào tạo nhân cách trẻ em theo những định hướng của xã hội.Quá trình thể hiện các chức năng trên là quá trình tổ chức các hoạt động dạy học, hoạt động giáo dục,... theo hệ thống chương trình, nội dung được tổ chức một cách chặt chẽ, có kế hoạch.

- Nhà trường là cơ quan thuộc sự quản lý của Nhà nước, được sự lãnh đạo trực tiếp và chặt chẽ của Đảng, nắm vững quan điểm và đường lối giáo dục xã hội chủ nghĩa.

- Nhà trường có chức năng thực hiện mục tiêu GD&ĐT nhân cách.

- Nhà trường có nội dung giáo dục và phương pháp giáo dục được chọn lọc và tổ chức chặt chẽ.

- Nhà trường có lực lượng giáo dục mang tính chuyên nghiệp.

- Môi trường giáo dục trong nhà trường có tính sư phạm, có tác dụng tích cực trong quá trình giáo dục đạo đức.

+ Các lực lượng xã hội bao gồm: Các cơ quan, các tổ chức chính trị, xã hội, các tổ chức kinh tế, các tổ chức đoàn thể quần chúng, các cơ quan chức năng,... [9,tr.7]. Trong các lực lượng giáo dục nhà trường có vai trò chủ đạo, là trung tâm tổ chức phối hợp và dẫn dắt công tác giáo dục.

1.2.2. Quản lý, quản lý hoạt động giáo dục đạo đức

* Quản lý:

Quản lý là một dạng lao động xã hội mang tính đặc thù, gắn liền và phát triển cùng với lịch sử phát triển của loài người. Từ khi có sự phân công lao động trong xã hội đã xuất hiện một dạng lao động đặc biệt, đó là tổ chức, điều khiển các hoạt động lao động theo những yêu cầu nhất định. Dạng lao động mang tính đặc thù đó còn được gọi là hoạt động quản lý.

Có nhiều quan niệm khác nhau về quản lý theo những cách tiếp cận khác nhau như:

+ “Quản lý là sự tác động liên tục có tổ chức, có định hướng của chủ thể quản lý (người quản lý, tổ chức quản lý) lên khách thể quản lý (đối tượng quản lý) về các mặt chính trị, văn hóa, xã hội, kinh tế, bằng một hệ thống các luật lệ, các chính sách, các nguyên tắc, các phương pháp và các giải pháp cụ thể nhằm tạo ra môi trường và điều kiện cho sự phát triển của đối tượng”. [8, tr7]

+ “Quản lý là tác động có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý (người quản lý) đến khách thể quản lý (người bị quản lý) trong một tổ chức

nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt được những mục đích của tổ chức”.[18, tr8]

+ “Quản lý là bảo đảm sự hoạt động của hệ thống trong điều kiện có sự biến đổi liên tục của hệ thống và môi trường, là chuyển hệ thống tới trạng thái mới thích ứng với hoàn cảnh mới”. [12, tr8]

Theo Fredenck, W.Taylor, tác giả của học thuật quản lý theo khoa học

thì:

Quản lý là biết được chính xác điều bạn muốn người khác làm và sau

đó hiểu được rằng họ đã hoàn thành công việc một cách tốt nhất và rẻ nhất”.

Theo thuyết quản lý hành chính của Henry Fayol thì: “Quản lý hành chính là dự báo và lập kế hoạch, tổ chức và điều khiển, phối hợp và kiểm tra”.

Mặc dù có nhiều quan niệm khác nhau về quản lý như đã dẫn ở trên, nhưng chúng ta có thể nhận thấy điểm chung của quản lý mà các khái niệm đó đã đề cập là:

- Quản lý bao giờ cũng có mục tiêu. Hoạt động quản lý được thực hiện với một tổ chức hay một nhóm xã hội. Đây là điểm hội tụ cho những hoạt động cùng nhau của nhiều người.

- Quản lý là thực hiện những tác động hướng đích từ chủ thể đến đối tượng. Yếu tố con người, trong đó người quản lý và người bị quản lý, giữ vai trò trung tâm trong hoạt động quản lý.

- Quản lý không chỉ thể hiện ý chí của chủ thể mà còn là sự nhận thức và thực hiện hoạt động theo quy luật khách quan. Lao động quản lý là điều kiện quan trọng để làm cho xã hội loài người tồn tại, vận hành và phát triển.

Từ những dấu hiệu đặc trưng nêu trên, có thể hiểu: Quản lý là sự tác động hợp quy luật của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý bằng tổ hợp những cách thức, những phương pháp nhằm khai thác và sử dụng tối đa các tiềm năng, các cơ hội của cá nhân cũng như của tổ chức, để đạt được những mục tiêu đã đề ra.

* Quản lý giáo dục:

Quản lý giáo dục được hiểu theo nhiều khía cạnh khác nhau. Một số tác giả cho rằng: Bản chất của quản lý giáo dục là quản lý sư phạm: quản lý mục tiêu, nội dung Giáo dục, phương pháp Giáo dục - Dạy học, Quản lý con người, quản lý các công cụ giáo dục; quản lý giáo dục nhằm phối hợp các ngành, các lực lượng xã hội, tiến hành công tác xã hội hóa giáo dục, huy động các nguồn lực và hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực GD&ĐT. quản lý giáo dục tiến hành những nhiệm vụ này thông qua việc thực hiện bốn chức năng của quản lý: Kế hoạch hóa, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra.

Nếu tiếp cận quản lý giáo dục ở cấp độ vĩ mô (quản lý hệ thống giáo dục) thì: Quản lý giáo dục là những tác động tự giác, có ý thức, có mục đích, có hệ thống và quy luật của chủ thể quản lý giáo dục các cấp đến tất cả các mắt xích của hệ thống Giáo dục nhằm thực hiện có chất lượng và hiệu quả tổ chức, huy động, điều phối, giám sát và điều chỉnh các nguồn lực Giáo dục, để hệ thống giáo dục vận hành đạt được mục tiêu phát triển giáo dục [18].

Nếu tiếp cận quản lý giáo dục ở cấp độ vi mô (quản lý một cơ sở giáo dục) thì: Quản lý giáo dục là những tác động tự giác, có ý thức, có mục đích, có hệ thống và hợp quy luật của chủ thể quản lý một cơ sở Giáo dục đến tập thể GV, công nhân viên, tập thể người học và các lượng tham gia giáo dục khác trong và ngoài cơ sở giáo dục đó, nhằm thực hiện có chất lượng và hiệu quả hoạt đông giáo dục và dạy học nhằm làm cho cơ sở giáo dục vận hành luôn ổn định và phát triển để đạt tới mục tiêu đào tạo của cơ sở Giáo dục đó [18].

Theo tác giả Đặng Quốc Bảo: “Quản lý giáo dục là hệ thống tác động có kế hoạch và có mục đích của chủ thể quản lý ở các cấp khác nhau đến tất cả các khâu, các bộ phận của hệ thống nhằm đảm bảo các cơ quan trong hệ thống giáo dục vận hành tối ưu, đảm bảo sự phát triển cả về mặt số lượng cũng như chất lượng để đạt được mục tiêu giáo dục”.[1,tr16]

Xem tất cả 137 trang.

Ngày đăng: 17/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí