3 năng lực, 3 năng lực chuyên môn. Môn học sẽ giúp học sinh phát triển các phẩm chất, năng lực đã được hình thành và phát triển ở cấp tiểu học; hình thành phương pháp học tập, hoàn chỉnh tri thức và kỹ năng nền tảng để tiếp tục học lên trung học phổ thông, học nghề hoặc tham gia vào cuộc sống lao động.
Vì vậy, việc xây dựng chương trình dựa trên 5 quan điểm là chương trình môn Khoa học tự nhiên cụ thể hóa những mục tiêu và yêu cầu của Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể; Hình thành và phát triển phẩm chất và năng lực học sinh; Quan điểm dạy học tích hợp; Quan điểm khoa học và thực tiễn, kết hợp lý thuyết với thực hành; Quan điểm phát triển bền vững và thực tiễn của Việt Nam.
Môn Khoa học tự nhiên góp phần thực hiện mục tiêu của giáo dục phổ thông, giúp học sinh phát triển hài hoà về thể chất và tinh thần; Hình thành và phát triển những phẩm chất chủ yếu ở học sinh như yêu đất nước, yêu con người, chăm học, chăm làm, trung thực, trách nhiệm; Hình thành và phát triển năng lực ở học sinh như năng lực tự chủ và tự học, giao tiếp và hợp tác, giải quyết vấn đề và sáng tạo.
Khoa học tự nhiên là khoa học có sự kết hợp nhuần nhuyễn lý thuyết với thực nghiệm. Vì vậy, thực hành, thí nghiệm trong phòng thực hành, phòng học bộ môn, ngoài thực địa có vai trò và ý nghĩa quan trọng, là hình thức dạy học đặc trưng của môn học này.
Trong chương trình giáo dục phổ thông mới, chương trình môn Khoa học tự nhiên sẽ được xây dựng dựa trên sự kết hợp của 3 trục cơ bản là Chủ đề khoa học - Các nguyên lý/khái niệm chung của khoa học - Hình thành và phát triển năng lực.
Trong đó, các nguyên lý/ khái niệm chung là vấn đề xuyên suốt, gắn kết các chủ đề khoa học của chương trình. Chủ đề khoa học chủ yếu của chương trình môn Khoa học tự nhiên gồm: Chất và sự biến đổi của chất:chất có ở xung quanh ta, cấu trúc của chất, chuyển hoá hoá học các chất. Vật sống là sự đa dạng trong tổ chức và cấu trúc của vật sống; các hoạt động sống; con người và
sức khoẻ; sinh vật và môi trường; di truyền, biến dị và tiến hoá; Năng lượng và sự biến đổi: năng lượng, các quá trình vật lý, lực và sự chuyển động; Trái Đất và bầu trời: chuyển động trên bầu trời, Mặt Trăng, hệ Mặt Trời, Ngân Hà, hóa học vỏ Trái Đất, một số chu trình sinh - địa - hóa, sinh quyển.
Các chủ đề được sắp xếp chủ yếu theo logic tuyến tính, có kết hợp ở mức độ nhất định với cấu trúc đồng tâm, đồng thời có thêm một số chủ đề liên môn, tích hợp nhằm hình thành các nguyên lý, quy luật chung của thế giới tự nhiên.
Các nguyên lý chung của khoa học tự nhiên trong chương trình môn Khoa học tự nhiên gồm: Tính cấu trúc, sự đa dạng, sự tương tác, tính hệ thống, sự vận động và biến đổi.
Các nguyên lý chung, khái quát của khoa học tự nhiên là nội dung cốt lõi của môn Khoa học tự nhiên. Các nội dung vật lý, hoá học, sinh học, Trái Đất và bầu trời được tích hợp, xuyên suốt trong các nguyên lý đó.
Có thể bạn quan tâm!
- Quản lý hoạt động dạy học môn khoa học tự nhiên theo định hướng phát triển năng lực học sinh ở các trường trung học cơ sở huyện Nậm Pồ, tỉnh Điện Biên - 2
- Quản lý hoạt động dạy học môn khoa học tự nhiên theo định hướng phát triển năng lực học sinh ở các trường trung học cơ sở huyện Nậm Pồ, tỉnh Điện Biên - 3
- Một Số Vấn Đề Lý Luận Về Hoạt Động Dạy Học Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Định Hướng Phát Triển Năng Lực Người Học Ở Trường Trung Học Cơ
- Những Yếu Tố Ảnh Hưởng Đến Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Định Hướng Phát Triển Năng Lực Học Sinh Ở Các Trường Thcs
- Thực Trạng Dạy Học Môn Khoa Học Tự Nhiên Ở Các Trường Thcs Của Huyện Nậm Pồ, Tỉnh Điện Biên
- Thực Trạng Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Định Hướng Phát Triển Năng Lực Thực Hiện Cho Học Sinh Thcs
Xem toàn bộ 174 trang tài liệu này.
Có thể thấy, Chương trình và nội dung dạy học là văn bản pháp quy của nhà nước xây dựng, là cơ sở pháp lý cho HĐDH. Quản lý chương trình, nội dung môn Khoa học tự nhiên theo định hướng phát triển năng lực học sinh ở trường THCS, phải căn cứ vào chương trình giáo dục phổ thông của Bộ GD&ĐT, các văn bản hướng dẫn của Bộ GD&ĐT, Sở GD&ĐT để xây dựng chuẩn đầu ra cho học sinh của nhà trường dựa trên chương trình, nội dung giáo dục phổ thông nói chung, trên cơ sở đó xác định các công việc, các kĩ năng và các năng lực cần thiết cho học sinh tương ứng với các năng lực chuyên biệt của môn Khoa học tự nhiên. Chương trình, nội dung phải có tính thực tiễn, tính khả thi, linh hoạt, mền dẻo nhằm đáp ứng được yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục.
Chương trình, nội dung dạy học môn Khoa học tự nhiên về nguyên tắc là pháp lệnh của nhà trường do Bộ GD&ĐT ban hành, là căn cứ pháp lệnh để nhà trường tiến hành chỉ đạo giám sát quản lý hoạt động dạy học. Chương trình (khung) dạy học quy định số lượng tiết học, xây dựng phương pháp, hình thức dạy học môn Khoa học tự nhiên, thời gian tính bằng số tiết trên tuần và số tiết cho cả năm học nhằm thực hiện mục tiêu của cấp học.
Quản lý thực hiện đúng chương trình, nội dung (khung) dạy học và biên chế thời gian năm học do Bộ GD&ĐT ban hành, khung phân phối chương trình được nhà trường xây dựng. Chương trình, nội dung xây dựng chi tiết của nhà trường phải phù hợp với tình hình thực tế và điều kiện vùng miền, tình hình nhà trường và năng lực của học sinh, nhưng giáo viên phải dạy đúng, đủ theo phân phối chương trình, nội dung chi tiết đặc thù môn Khoa học tự nhiên. Cụ thể:
- Nội dung dựa trên cơ sở một chương trình chuẩn và đảm bảo tính phổ thông, toàn diện, hướng nghiệp.
- Nội dung chương trình phải cơ bản, tinh giản, thiết thực và cập nhật với sự phát triển kinh tế - kỹ thuật, kinh tế - xã hội.
- Tiến kịp trình độ chung các nước trong khu vực và thế giới.
- Giảm tính lý thuyết, hàn lâm, kinh viện, giảm nhẹ yêu cầu về tuyệt đối, chính xác khoa học, cầu toàn trong quá trình hình thành khái niệm mới và khó.
- Tăng tính thực tiễn, thực hành, hình thành khái niệm thông qua sử dụng TBDH một cách hợp lí.
- Đảm bảo vừa sức, khả thi. Thực hiện được yêu cầu về giảm tải: tích hợp các nội dung phù hợp, lược bỏ nội dung trùng nhau.
- Giảm số tiết trên lớp, tăng thời gian tự học và ngoại khóa.
b. Quản lý việc thiết kế giáo án dạy học môn khoa học tự nhiên theo định hướng phát triển năng lưc học sinh
Việc thiết kế giáo án phải tuân thủ theo quy định của một giáo án tích hợp liên môn. Trong đó phải hiển thị phương pháp dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh không chỉ chú ý tích cực hóa HS về hoạt động trí tuệ mà còn chú ý rèn luyện năng lực giải quyết vấn đề gắn với tình huống của cuộc sống và nghề nghiệp, đồng thời gắn hoạt động trí tuệ với hoạt động thực hành, thực tiễn. Tăng cường việc học tập trong nhóm, đổi mới quan hệ GV - HS theo hướng cộng tác có ý nghĩa quan trọng nhằm phát triển năng lực xã hội. Bên cạnh việc học tập những tri thức và kĩ năng riêng lẻ của các môn học chuyên môn cần bổ sung các chủ đề phức hợp nhằm phát triển năng lực giải quyết các vấn đề phức hợp.
Theo quan điểm phát triển năng lực, việc đánh giá kết quả học tập không lấy kiểm tra khả năng tái hiện kiến thức đã học làm trung tâm mà cần chú trọng khả năng vận dụng sáng tạo tri thức trong những tình huống ứng dụng khác nhau.
Môn Khoa học tự nhiên trong chương trình giáo dục phổ thông mới đặt ra yêu cầu cần được bồi dưỡng về phương pháp dạy học tích hợp, dạy học phân hoá; kiểm tra, đánh giá kết quả giáo dục theo hướng phát triển phẩm chất, năng lực; bồi dưỡng kiến thức vật lý, hoá học, sinh học để vừa nắm vững các nguyên lý khoa học tự nhiên, các nguyên lý ứng dụng công nghệ, vừa hiểu sâu các khái niệm, quy luật tự nhiên
c. Quản lý hoạt động học tập của học sinh học theo định hướng phát triển năng lực học sinh
Quản lý hoạt động học tập môn Khoa học tự nhiên là quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ học tập trên lớp, tự học ngoài giờ lên lớp của HS. Nó cần đạt được những yêu cầu chủ yếu sau:
Học tập trên lớp: Yêu cầu mỗi học sinh tự xây dựng được tinh tần thái độ học tập đúng đắn, nắm được cách học, cách tự học, tự rèn luyện, có ý thức học tập tốt, biết tập trung nghe giảng để hiểu bài ngay tại lớp, chuyên cần học bài và làm bài đầy đủ, có thái độ trung thực trong kiểm tra, tham gia đầy đủ các hoạt động ngoài giờ lên lớp.
Học tập ở nhà: Tự biết sắp xếp góc học tập ở nhà, đảm bảo điều kiện tốt nhất có thể để thực hiện tốt nhất nhiệm vụ học tập như học bài và làm bài tập đầy đủ bài tập về nhà, chuẩn bị bài học mới và chuẩn bị đồ dùng học tập.
Khen thưởng, kỷ luật trong thực hiện nề nếp học tập: Xây dựng, tổ chức khen thưởng để động viên học tập cho học sinh, động viên cho học sinh có tiến bộ trong lớp và học sinh học tập nổi trội trong lớp. Hàng tuần ban tổng phụ trách theo dõi thi đua, thu thập phân tích đánh giá kết quả của học sinh, thực hiện nề nếp học tập, thực hiện chuyên cần kỷ luật trong học tập; tạo sân chơi
cho các em học sinh, câu lạc bộ các môn học mà em yêu thích giúp học sinh tìm hiểu kiến thức, phát triển trí tuệ phù hợp năng lực trí tuệ của học sinh, làm tốt sẽ kích thích hoạt động học tập của học sinh.
d. Quản lý thực hiện chương trình, nề nếp dạy học đổi mới dạy học môn Khoa học tự nhiên theo định hướng phát triển năng lực học sinh
Quản lý chỉ đạo đổi mới phương pháp dạy học môn Khoa học tự nhiên theo định hướng phát triển năng lực học sinh là những tác động của Phòng GD&ĐT làm GV nắm chắc về các PPDH theo đặc trưng bộ môn, nắm được yêu cầu về đổi mới PPDH theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động , sáng tạo của học sinh trong học tập, bồi dưỡng phương pháp tự học, tự nghiêm cứu cho học sinh; làm cho các PPDH tích cực và việc sử dụng trang thiết bị dạy học hiện đại được GV sử dụng thường xuyên nhằm nâng cao chất lượng dạy học.
Trong chương trình giáo dục phổ thông mới, chương trình môn Khoa học tự nhiên thích hợp với các phương pháp giáo dục tích cực, trong đó giáo viên đóng vai trò tổ chức, hướng dẫn hoạt động cho học sinh, tạo môi trường học tập thân thiện và những tình huống có vấn đề để khuyến khích học sinh tích cực tham gia vào các hoạt động học tập, rèn luyện thói quen và khả năng tự học, phát huy tiềm năng và những kiến thức, kỹ năng đã tích luỹ được để phát triển.
Vì vậy, các phương pháp giáo dục chủ yếu được lựa chọn theo các định hướng: Dạy học bằng tổ chức chuỗi hoạt động tìm tòi, khám phá tự nhiên; Rèn luyện được cho học sinh phương pháp nhận thức, kỹ năng học tập, thao tác tư duy; Thực hành thí nghiệm, hoạt động trải nghiệm trong môi trường tự nhiên, thực tiễn đời sống cá nhân và xã hội; Tăng cường phối hợp hoạt động học tập cá nhân với học hợp tác nhóm nhỏ; Kiểm tra, đánh giá, đặc biệt đánh giá quá trình được vận dụng với tư cách phương pháp tổ chức hoạt động học tập.
Hoạt động học tập của học sinh là hoạt động chủ động, tích cực chiếm lĩnh, thực hành, vận dụng tri thức dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Các hoạt động học tập nói trên được tổ chức trong và ngoài khuôn viên nhà trường,
thông qua một số phương pháp dạy học chủ yếu tìm tòi, khám phá; phát hiện và giải quyết vấn đề; dạy học theo dự án; bài tập tình huống; dạy học thực hành và thực hiện bài tập; tự học...
e. Quản lý kiểm tra đánh giá hoạt động dạy học của giáo viên giảng dạy môn Khoa học tự nhiên theo định hướng phát triển năng lực học sinh.
Kiểm tra, đánh là là một bộ phận không thể tách rời của quá trình dạy học. Kiểm tra, đánh giá tạo động lực thúc đẩy sự đổi mới của quá trình dạy học và các quá trình khác như đổi mới phương pháp dạy, đổi mới cách thức tổ chức dạy học, đổi mới công tác quản lý. Đánh giá nhằm vào sự tiến bộ của người học, giúp người học phát triển năng lực; mặt khác người học có được sự tự tin, niềm tin và tự giác trong quá trình học tập.
Kiểm tra đánh giá học sinh nhằm có kế hoạch sát thực và phù hợp với trình độ giảng dạy của giáo viên và học tập của học sinh nhằm giúp nhà trường tăng cường thực hiện các biện pháp quản lý dạy và học để nâng cao chất lượng dạy và học là một việc làm vô cùng quan trọng.
Đánh giá kết quả giáo dục môn Khoa học tự nhiên căn cứ đánh giá là các yêu cầu cần đạt về phẩm chất và năng lực được quy định. Phạm vi đánh giá là toàn bộ nội dung và yêu cầu cần đạt của chương trình môn Khoa học tự nhiên.
Đối tượng đánh giá là sản phẩm và quá trình học tập, rèn luyện của học sinh thông qua học tập môn Khoa học tự nhiên.
Kết quả giáo dục được đánh giá bằng các hình thức định tính và định lượng thông qua đánh giá quá trình, đánh giá tổng kết ở cơ sở giáo dục, các kỳ đánh giá trên diện rộng ở cấp quốc gia, cấp địa phương và các kỳ đánh giá quốc tế.
Kết quả các môn học tự chọn được sử dụng cho đánh giá kết quả học tập chung của học sinh trong từng năm học và trong cả quá trình học tập.
Việc đánh giá quá trình do giáo viên phụ trách môn học tổ chức, dựa trên kết quả đánh giá của giáo viên, của cha mẹ học sinh, của bản thân học sinh được đánh giá và của các học sinh khác trong tổ, trong lớp.
Việc đánh giá tổng kết do cơ sở giáo dục tổ chức. Việc đánh giá trên diện rộng ở cấp quốc gia, cấp địa phương do tổ chức kiểm định chất lượng cấp quốc gia hoặc cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương tổ chức để phục vụ công tác quản lý các hoạt động dạy học, phát triển chương trình và nâng cao chất lượng giáo dục.
g. Quản lý các yếu tố, điều kiện dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh
- Quản lý phương tiện - thiết bị dạy học: là những tác động của phòng GD&ĐT đến các nhà trường nhằm khai thác đầu tư, mua sắm đầy đủ trang thiết bị dạy học, xây dựng các phòng học bộ môn hiện đại đạt chuẩn quốc gia, xây dựng và quản lý nề nếp sử dụng trang thiết bị của GV trong giảng dạy, xây dựng phong trào quản lý và làm đô dùng dạy học trong GV.
- Quản lý môi trường giáo dục: là những tác động của Phòng GD&ĐT nhằm xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, đẩy mạnh công tác xã hội hóa giáo dục, phối hợp tốt 3 môi trường giáo dục nhằm tạo điều kiện tốt nhất để nâng cao chất lượng dạy học nói riêng và giáo dục HS nói chung.
Môn Khoa học tự nhiên cũng chú trọng thực hành thí nghiệm, vì vậy, nhà trường phổ thông cần được đầu tư trang thiết bị, vật liệu, hoá chất, phòng học bộ môn.
Giáo viên cần dành thời gian thích đáng giới thiệu cho học sinh cách sử dụng sách giáo khoa và tài liệu tham khảo, các cách học phổ biến và đặc thù môn học, các quy tắc an toàn cho bản thân khi thực hành thí nghiệm, các trang thiết bị, dụng cụ học tập và cách sử dụng an toàn, cách thực hiện một số kỹ năng, các nguồn tra cứu tài liệu tham khảo.
Trong điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị ở các nhà trường còn hạn chế, việc tổ chức cho học sinh tiếp cận, tìm hiểu thế giới tự nhiên gặp nhiều khó khăn thì cần lưu ý tổ chức cho học sinh tham quan các cơ sở nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ ở những địa phương.
Ở những nơi khó khăn, có thể tổ chức cho học sinh quan sát qua các phương tiện nghe nhìn hiện đại.
h. Quản lý bồi dưỡng năng lực dạy học cho đội ngũ giáo viên dạy môn KHTN
Nội dung giáo dục và hình thức tích hợp trong chương trình môn Khoa học tự nhiên về cơ bản không làm thay đổi lớn số lượng giáo viên hiện nay. Giáo viên dạy các môn Vật lý, Hóa học và Sinh học hiện nay có thể tham gia dạy học môn Khoa học tự nhiên được ngay. Đó là do chương trình môn học lựa chọn hình thức tích hợp phù hợp với khả năng dạy học của giáo viên và điều kiện cơ sở vật chất của nhà trường.
Mức độ tích hợp liên môn, nghĩa là tích hợp nhưng vẫn giữ các mạch nội dung gần với mạch kiến thức của hóa học, vật lý hay sinh học. Các nội dung được sắp xếp gần nhau theo từng mạch nội dung hỗ trợ cho nhau theo nguyên lý của tự nhiên. Việc vẫn giữ các mạch nội dung gần với mạch kiến thức của hóa học, vật lý hay sinh học sẽ tạo điều kiện thuận lợi hơn cho phân công giáo viên dạy học. Ít nhất, giáo viên môn nào vẫn dạy được mạch nội dung liên quan đến môn của mình đang dạy học.
Trong những năm đầu tiên thực hiện chương trình mới, nhà trường phổ thông cần bố trí giáo viên phù hợp với mạch nội dung dạy học trên nguyên tắc giáo viên thuận lợi trong việc dạy nội dung nào thì bố trí dạy nội dung đó. Công tác phân công giáo viên và xếp thời khóa biểu chắc chắn sẽ có nhiều thay đổi nhưng cần đảm bảo tính thống nhất của môn học theo sự sắp xếp của các mạch nội dung, không nên tách riêng ra từng phần cho từng giáo viên dạy riêng rẽ.
Tuy nhiên, để giao viên dạy môn KHTN đạt được hiệu quả dạy học tốt nhất, nhà trường cần quan tâm đến khâu bồi dưỡng đội ngũ giáo viên. Các giáo viên sẽ được tập huấn về phương pháp dạy học môn KHTN, phương pháp kiểm tra đánh giá, cách dọn bài lên lớp, cách xây dựng kế hoạch lên lớp… sao cho phù hợp với tính chất dạy học liên môn bởi Khoa học tự nhiên là một môn học, không phải 3 môn học riêng rẽ cộng lại một cách cơ học nên hoạt động chuyên môn trong nhà trường cần bố trí lại theo hướng một môn học, giáo viên trong tổ bộ môn Khoa học tự nhiên hỗ trợ lẫn nhau những nội dung và chủ đề tích hợp.
Ngoài ra, do môn học cần tăng cường hoạt động thực hành và trải nghiệm, nên giáo viên cần phải bỏ nhiều công sức chuẩn bị hơn.