Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC MÔN KHOA HỌC TỰ NHIÊN THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN
NĂNG LỰC HỌC SINH Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ
1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Nghiên cứu ngoài nước
Vấn đề dạy học và quản lí dạy học đã được nhiều nhà giáo dục ở trên thế giới nghiên cứu tổng kết và được vận dụng vào trong thực tiễn. Có thể nhận thấy nền giáo dục phổ thông trên thế giới đã có sự chuyển biến từ giáo dục tinh hoa sang giáo dục đại chúng, từ giáo dục truyền thống sang giáo dục hiện đại, từ giáo dục theo mục tiêu (nội dung) sang giáo dục theo đầu ra (năng lực). Cùng với xu thế phát triển dạy học theo tiếp cận năng lực thực hiện thì những nghiên cứu về quản lý dạy học theo tiếp cận năng lực thực hiện cũng được thực hiện và công bố rộng rãi.
Quan điểm quản lý hoạt động dạy học theo tiếp cận năng lực người học được hình thành và phát triển rộng khắp tại Nga vào những năm 1970 trong phong trào đào tạo và giáo dục, các nhà giáo dục và đào tạo nghề dựa trên việc thực hiện nhiệm vụ, các tiếp cận về năng lực đã phát triển mạnh mẽ trên một nấc thang mới trong những năm 1990 với hàng loạt các tổ chức có tầm cỡ quốc gia ở Mỹ, Anh, Úc, Xứ Wales... Trong những công trình nghiên cứu của mình, các nhà quản lý giáo dục Xô Viết đã cho rằng kết quả toàn bộ hoạt động của nhà trường phụ thuộc rất nhiều vào việc tổ chức đúng đắn và hợp lý công tác hoạt động của đội ngũ giáo viên.
Tác giả Robert J. Marzano trong cuốn The Art and Science of teaching cho rằng: Hoạt động dạy học có thành công hay không tùy thuộc nhiều vào năng lực của người giáo viên. Dạy học theo định hướng phát triển năng lực đòi hỏi người giáo viên phải lấy khả năng sáng tạo kiến thức của người học làm mục tiêu của giáo dục. Ông phê phán quan điểm dạy học áp dụng một phương pháp dạy học cho mọi đối tượng học sinh.
Tác giả Dierick và Dochi, 2011, cho rằng: Dạy học theo định hướng phát triển năng lưc cần quan tâm đến khâu đánh giá trên lớp học. Người giáo viên cần sử dụng đa dạng các hình thức đánh giá để phát huy tính tự giác học tập của học sinh.
Có thể bạn quan tâm!
- Quản lý hoạt động dạy học môn khoa học tự nhiên theo định hướng phát triển năng lực học sinh ở các trường trung học cơ sở huyện Nậm Pồ, tỉnh Điện Biên - 1
- Quản lý hoạt động dạy học môn khoa học tự nhiên theo định hướng phát triển năng lực học sinh ở các trường trung học cơ sở huyện Nậm Pồ, tỉnh Điện Biên - 2
- Một Số Vấn Đề Lý Luận Về Hoạt Động Dạy Học Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Định Hướng Phát Triển Năng Lực Người Học Ở Trường Trung Học Cơ
- Quản lý hoạt động dạy học môn khoa học tự nhiên theo định hướng phát triển năng lực học sinh ở các trường trung học cơ sở huyện Nậm Pồ, tỉnh Điện Biên - 5
- Những Yếu Tố Ảnh Hưởng Đến Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Định Hướng Phát Triển Năng Lực Học Sinh Ở Các Trường Thcs
Xem toàn bộ 174 trang tài liệu này.
Qua các nghiên cứu của tác giả nước ngoài cho thấy vấn đề dạy học và quản lý HĐDH được nghiên cứu một cách có hệ thống. Các nghiên cứu đều coi trọng vị trí của giáo dục đối với con người và sự tiến bộ xã hội. Kết quả giáo dục phụ thuộc rất nhiều vào công tác quản lý HĐDH và nhân tố người thầy với khả năng tự học và sáng tạo
P.V. Zimin, M.I.Konđakôp, N.I.Saxerđôtôp đã đi sâu nghiên cứu công tác lãnh đạo hoạt động giảng dạy, giáo dục trong nhà trường và xem đây là khâu then chốt trong công tác quản lý của hiệu trưởng. Đối với công tác xây dựng và bồi dưỡng đội ngũ giáo viên, các nhà nghiên cứu đều cho rằng trong những nhiệm vụ của hiệu trưởng thì nhiệm vụ hết sức quan trọng là xây dựng và bồi dưỡng đội ngũ giáo viên. Hiệu trưởng phải biết lựa chọn đội ngũ giáo viên bằng nhiều nguồn khác nhau và bồi dưỡng họ trở thành những giáo viên tốt theo tiêu chuẩn nhất định bằng những biện pháp khác nhau.
Harld - Kôntz, trong cuốn Những vấn đề cốt yếu về quản lí, nhà xuất bản khoa học kỹ thuật 1992; V.A Xukhomlinxki (1974), Một số kinh nghiệm lãnh đạo của Hiệu trưởng trường phổ thông (Hoàng Tân Sơn lược dịch), Cục đào tạo và bồi dưỡng. Bộ Giáo dục đào tạo) đã đưa ra nhiều tình huống quản lý giáo dục và quản lý dạy học trong nhà trường. Nhà nghiên cứu về quản lý giáo dục Nga
V.A Khu-đô-min-ki đã tổng kết những thành công, thất bại của mình trong hơn 25 năm làm Hiệu trưởng cùng với nhiều tác giả; ông đã đưa ra một số biện pháp quản lý hoạt động dạy học ở trường THPT, đó là sự phân công hợp lý trong Ban giám hiệu; xây dựng và bồi dưỡng giáo viên; tổ chức hội thảo khoa học…
Nghiên cứu về quản lý hoạt động dạy môn khoa học tự nhiên, các tác giả Dennis Goosdrum đã khẳng định việc quản lý, định hướng hoạt động dạy học, hoạt động tổ chức giúp học sinh lĩnh hội và vận dụng kiến thức, các thuật ngữ, các thông số khoa học là vô cùng quan trọng và cần được nghiên cứu lâu dài, trên nhiều bình diện của vấn đề. [29]
Có thể thấy rằng, xã hội ngày càng đổi mới và phát triển, tất yếu dẫn đến nội dung và phương pháp giáo dục phải có đổi mới để đáp ứng yêu cầu của xã hội. Trên thế giới đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu cải tổ nền giáo dục theo hướng phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của người học. Những công trình nghiên cứu nổi tiếng đề cập đến hoạt động dạy học gắn với các tên tuổi của Pi-a-giet, Le-on-chi-ep, Đan-nhi-lop, E-xi-pop,.... Các nghiên cứu cũng đã chỉ ra một số nguyên nhân khiến chất lượng dạy học đi xuống như việc quản lý hoạt động dạy học kém, học sinh không có phương pháp học, việc phân bổ thời gian cho việc học giữa ở nhà và ở trường chưa hợp lý.
1.1.2. Nghiên cứu trong nước
Từ thời phong kiến, các tư tưởng dạy học cũng đã được đề cập đến trong các tác phẩm của các nhà giáo dục lớn như Nguyễn Trãi, Chu Văn An. Đến thời kì cách mạng, trước hết phải nói đến tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về quản lý giáo dục và dạy học. Người đã để lại cho nền giáo dục cách mạng Việt Nam những nền tảng phương pháp luận về: vai trò của giáo dục đối với sự phát triển của xã hội, phát triển con người theo định hướng phát triển dạy học; các nguyên lý dạy học, các phương thức dạy học; mục đích dạy học; vai trò của quản lý và cán bộ quản lý giáo dục...
Dựa trên nền tảng lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, các nhà khoa học Việt Nam đã tiếp cận quản lý giáo dục và quản lý HĐDH chủ yếu dựa trên nền tảng lý luận giáo dục học.
Trước nhiệm vụ đổi mới giáo dục hiện nay, việc yêu cầu đổi mới nội dung, phương pháp dạy học, kiểm tra đánh giá là việc làm cần thiết và cấp bách. Các nhà nghiên cứu giáo dục cũng cho ra đời nhiều công trình trong lĩnh vực này như: Đặng Quốc Bảo, Đỗ Ngọc Đạt, Phạm Thành Hưng, Trần Kiểm, Phạm Minh Mục, Nguyễn Văn Cường...
Tác giả Nguyễn Văn Lê trong các công trình nghiên cứu của mình đã nhấn mạnh vai trò của quản lý trong việc thực hiện mục tiêu giáo dục. [21]
Nhiều nhà nghiên cứu và làm công tác quản lý ở Việt Nam đã đề cập đến sự cần thiết phải đổi mới trong hoạt động dạy học để đáp ứng yêu cầu của thực tiễn giáo dục.Tiêu biểu là các công trình của các tác giả như Trần Bá Hoành, Thái Duy Tuyên, Phan Trọng luận, Lưu Xuân Mới, Quách Tuấn Ngọc… các tác giả dành sự quan tâm cho rất nhiều vấn đề cụ thể của quản lí giáo dục ở các cấp và ngành học khác nhau, từ giáo dục mầm non đến giáo dục đại học..
Nghiên cứu về thực tiễn quản lý các mặt hoạt động dạy học có các luận văn của tác giả Lê Thành Hiếu “Những biện pháp quản lý của Hiệu trưởng nhằm đổi mới phương pháp dạy học ở các trường trung học phổ thông tại quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh” năm 2006 [18]; giả Ngô Hoàng Gia “Những biện pháp quản lý đổi mới hoạt động dạy học của Hiệu trưởng các trường THCS huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ”, năm 2007 [15]; Tác giả Lê Sĩ Hải (2007), với đề tài “Một số biện pháp quản lý hoạt động dạy học của Hiệu trưởng nhằm phát huy vai trò tích cực, chủ động trong học tập của HS THPT huyện Thọ Xuân - Thanh Hoá” [16]; Tác giả Trần Thị Bích Vân (2011), với đề tài “Biện pháp quản lý hoạt động dạy học của Hiệu trưởng trường THPT Huyện Vũ Thư - tỉnh Thái Bình, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay”.
Nhìn chung tất cả các công trình nêu trên đều đã đề cập đến vấn đề đổi mới PPDH trong nhà trường phổ thông hiện nay, và đã chỉ ra được sự cần thiết cũng như những nguyên nhân ảnh hưởng đến quá trình thực hiện đổi mới PPDH. Đồng thời cũng đã khẳng định được thay đổi nhà trường và thay đổi PPDH là điều tất yếu trong sự phát triển của xã hội hiện nay. Các công trình nghiên cứu trên cơ bản đã giải quyết được những vấn đề lý luận cũng như thực tiễn về quản lý hoạt động dạy học nói chung và bộ môn Khoa học tự nhiên nói riêng, tuy nhiên các công trình này chưa đi sâu nghiên cứu một cách có hệ thống về quản lý hoạt động dạy học môn Khoa học tự nhiên ở trường THCS theo tiếp cận năng lực thực hiện. Vì vậy, tôi đã mạnh dạn lựa chọn đề tài: “Quản lý hoạt động dạy học môn Khoa học tự nhiên theo định hướng phát triển năng lực học sinh ở các trường trung học cơ sở huyện Nậm Pồ, tỉnh Điện Biên”.
1.2. Khái niệm công cụ
1.2.1. Quản lý
Xuất phát từ những góc độ nghiên cứu khác nhau, cũng như từ những vấn đề đặc trưng khác nhau rất nhiều học giả trong và ngoài nước đã đưa ra nhiều định nghĩa không giống nhau về quản lý:
Theo từ điển tiếng Việt, Quản lý là tổ chức và điều khiển các hoạt động theo những yêu cầu nhất định.
Theo tác giả Nguyễn Thị Mỹ Lộc và tác giả Nguyễn Quốc Chí: “Quản lý là sự tác động có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý (người quản lý) đến khách thể quản lý) người bị quản lý) trong một tổ chức nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt được mục đích của tổ chức”. [8]
Trong cuốn Những khái niệm cơ bản về lý luận quản lý giáo dục tác giả Nguyễn Ngọc Quang cho rằng “Quản lý là tác động có mục đích, có kế hoạch của chủ thể quản lý đến tập thể những người lao động nói chung là khách thể quản lý nhằm thực hiện mục tiêu đã dự kiến” [25].
Lý luận và thực tế cho thấy quản lý không những là một môn khoa học mà nó còn là một “nghệ thuật” đòi hỏi sự vận dụng tinh tế, khôn khéo để đạt tới mục đích. Mục tiêu quản lý là định hướng tàn bộ hoạt động quản lý đồng thời là công cụ để đánh giá kết quả quản lý.
Như vậy quản lý là hoạt động có ý thức của con người nhằm định hướng, tổ chức, sử dụng các nguồn lực và phối hợp hành động của một nhóm người hay một cộng đồng người để đạt được mục tiêu đề ra một cách hiệu quả nhất.
Với tất cả các quan điểm đã trình bày trên, trong luận văn này chúng tôi sử dụng khái niệm quản lý: Quản lý là quá trình nhà quản lý tác động có mục đích, có kế hoạch đến khách thể quản lý trong một tổ chức nhằm đạt được mục tiêu của tổ chức, phù hợp với quy luật vận hành của tổ chức đó.
Khi xem xét khái niệm quản lý cần chú ý 3 điểm sau: (1) quản lý là những tác động có mục đích lên những tập thể, nhóm xã hội, tổ chức; (2) quản lý là công tác phối hợp có hiệu quả hoạt động của những người cộng sự khác nhau cùng chung một tổ chức; (3) quản lý là các hoạt động được thực hiện nhằm đảm bảo hoàn thành công việc qua những nỗ lực của người khác.
Quản lý có 4 chức năng cơ bản: Kế hoạch hóa; Tổ chức, Chỉ đạo và kiểm tra. Nội dung cơ bản của các chức năng như sau:
Kế hoạch hóa: Kế hoạch hóa là việc xác định mục tiêu, mục đích đối với những thành quả tương lai của tổ chức, của các hoạt động chức năng và vạch ra con đường tối ưu với các tính toán cân đối các nguồn lực, các thách thức và điều kiện cần thiết để đạt mục tiêu, mục đích đã xác định.
Tổ chức: Tổ chức là quá trình bố trí, sắp xếp các nguồn nhân lực và nhân sự, hình thành nên cấu trúc hợp lý, hiệu quả các quan hệ giữa các thành viên, giữa các bộ phận trong một tổ chức nhằm làm cho họ thực hiện thành công các kế hoạch và đạt được mục tiêu tổng thể của tổ chức.
Chỉ đạo: Lãnh đạo bao hàm việc liên kết, liên hệ với người khác và ra quyết định chỉ huy, hoặc động viên họ hoàn thành những nhiệm vụ nhất định để đạt được yêu cầu của các kế hoạch và mục tiêu của tổ chức.
Kiểm tra: Kiểm tra cũng là một chức năng quản lý, thông qua đó một cá nhân, một nhóm hoặc một tổ chức là chủ thể quản lý thực hiện việc theo dõi, giám sát các thành quả hoạt động và tiến hành những hoạt động sửa chữa, uốn nắm nếu cần thiết.
Tóm lại: Các chức năng của quản lý tạo thành một hệ thống thống nhất với một trình tự nhất định, trong đó từng chức năng vừa có tính độc lập tương đối, vừa có mối quan hệ phụ thuộc với các chức năng khác. Quá trình ra quyết định quản lý là quá trình thực hiện các chức năng quản lý theo một trình tự nhất định. Việc bỏ qua hoặc coi nhẹ bất cứ chức năng nào trong 4 chức năng trên đều không đem lại kết quả như mong muốn.
1.2.2. Hoạt động dạy học
Dạy học là một hoạt động chủ yếu trong nhà trường giúp HS tiếp thu những kiến thức phổ thông cơ bản, hiện đại của nhân loại, hình thành những kĩ năng, kĩ xảo và những năng lực, phẩm chất trí tuệ cần thiết của người công dân, dạy học cũng là con đường cơ bản để hình thành thế giới quan khoa học, phẩm chất đạo đức và phát triển nhân cách học sinh.
Khái niệm hoạt động dạy học có nhiều cách hiểu và được nhiều tác giả định nghĩa khác nhau:
Hoạt động dạy học của giáo viên là một mặt của hoạt động sư phạm (4). Trước đây, người ta hiểu hoạt động sư phạm chỉ là hoạt động của người thầy. Người thầy đóng vai trò trung tâm trong quá trình dạy và học. Trong hoạt động sư phạm, người thầy chủ động từ việc chuẩn bị nội dung giảng dạy, phương pháp truyền thụ, đến những lời chỉ dẫn, những câu hỏi, v.v. Còn học sinh (HS) tiếp nhận thụ động, học thuộc để “trả bài”. Người thầy giữ “chìa khoá tri thức”, cánh cửa tri thức chỉ có thể mở ra từ phía hoạt động của người thầy. Quan niệm này hiện nay đã lỗi thời, bị vượt qua. Vì rằng, từ góc độ khoa học sư phạm, quan niệm trên chỉ chú trọng hoạt động một mặt, hoạt động của người thầy mà không thấy được mặt kia của hoạt động sư phạm là hoạt động của trò.
Theo quan điểm lý thuyết về dạy học hiện đại, hoạt động dạy học bao gồm hoạt động của thầy và trò. Nhà tâm lý học A.Mentriskaia viết: “Hai hoạt động của thầy và trò là hai mặt của một hoạt động”.
Hoạt động dạy học là hoạt động được thực hiện theo một chiến lược, chương trình đã được thiết kế, tác động đến người học nhằm hướng tới mục tiêu hình thành và phát triển phẩm chất, năng lực của người học. Giáo viên (GV) xây dựng, thiết kế hoạt động dạy học một cách đầy đủ và cụ thể bao nhiêu thì công việc dạy học càng hiệu quả bấy nhiêu. Hoạt động dạy học là “hoạt động cùng nhau của thầy và trò”. Thầy và trò cùng hướng về một mục tiêu. Năng lực của hoạt động dạy của người thầy và năng lực học của học sinh
được thể hiện ở các mức độ đạt được của mục tiêu chương trình giáo dục đề ra. Do vậy, hoạt động dạy có kết quả khi nó tác động cùng hướng với hoạt động học. Hoạt động dạy học có tính tương tác ở chỗ, nó phải bắt nhịp cùng người học, là người tham gia hoạt động học cả về trí tuệ và tình cảm. Thứ ba, hoạt động dạy học nhìn từ phía hoạt động của người thầy trong tương tác với họat động học của trò là hướng dẫn, tổ chức và điều khiển hoạt động học của HS.
Như vậy, HDDH là một hoạt động kép bao gồm hoạt động dạy của GV và hoạt động học của HS. Hoạt động dạy và hoạt động học thống nhất biện chứng với nhau trong HDDH. Nếu thiếu một trong hai hoạt động thì không có HĐH. Nếu không có hoạt động dạy thì chỉ còn hoạt động tự học của HS, nếu không có hoạt động học thì hoạt động dạy cũng không diễn ra.
Hoạt động dạy của GV là hoạt động lãnh đạo, tổ chức, điều khiển hoạt động nhận thức của HS. Hoạt động học của HS là hoạt động tự giác, chủ động, tích cực tiếp thu kiến thức, tự tổ chức, tự điều khiển hoạt động nhận thức của mình nhằm biến những tri thức của nhân loại thành kiến thức, tri thức của bản thân, tự làm phong phú và phát triển giá trị của bản thân.
HĐDH diễn ra theo từng quá trình, sau mỗi quá trình, HS đạt được những tiến bộ mới về kiến thức, kĩ năng và thái độ, nhân cách HS được hoàn thiện dần. Theo tiếp cận hệ thống thì quá trình dạy học là một hệ thống gồm các thành tố cơ bản là: Mục tiêu dạy học; Nội dung, Phương pháp, Phương tiện, Hình thức tổ chức dạy học, GV với hoạt động dạy, HS với hoạt động học, Kết quả dạy học. Bản chất của hoạt động dạy học thể hiện tính thống nhất của hoạt động dạy và hoạt động học, sự thống nhất biện chứng giữa các thành tố của hoạt động dạy học trong quá trình triển khai hoạt động dạy học.
V.I.Lênin đã khái quát quá trình nhận thức của loài người: “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn, đó là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, nhận thức hiện thực khách quan”.