Ý Kiến Của Cán Bộ Quản Lý Về Sử Dụng Phương Pháp, Phương Tiện Dạy Học Và Cơ Sở Vật Chất Trong Dạy Học Môn Giáo Dục Thể Chất

Qua kết quả thăm dò ý kiến cho thấy:

Khó khăn lớn nhất là việc tổ chức cho học sinh tham gia các hoạt động văn hoá thể thao của địa phương. Các địa phương không tổ chức tốt các hoạt động này nguyên nhân là do điều kiện kinh tế còn khó khăn, thiếu kinh phí tổ chức, đời sống khó khăn, việc phải hàng ngày lo công việc làm ăn nuôi sống gia đình khiến người dân không nghĩ đến nhu cầu sinh hoạt văn hoá thể thao.

Bên cạnh đó, lực lượng đứng ra tổ chức các hoạt động không đủ năng lực cũng là một nguyên nhân dẫn đến việc thiếu các hoạt động văn hoá thể thao tại các địa phương.

Khó khăn thứ 2 là khó khăn về điều kiện dụng cụ thể thao, sân bãi cho tập luyện, hầu hết các nhà trường đều thiếu dụng cụ và sân bãi phục vụ tập luyện trong nhiều năm nay. Lý do bởi cơ sở hạ tầng ở nhiều nhà trường vẫn đang thiếu thốn, kinh phí đầu tư cho công tác GDTC còn hạn chế, bãi tập cho học sinh hết sức khó khăn... Dụng cụ tập luyện cũng trong tình trạng tương tự khi mà nguồn kinh phí hàng năm cho việc mua sắm thiết bị, dụng cụ luyện tập không đáng kể so với nhu cầu thực tế.

Khó khăn thứ 3 là vấn đề kinh phí cho việc tổ chức các hoạt động GDTC, hằng năm kinh phí tổ chức các hoạt động trong nhà trường đều do ngân sách nhà nước cấp, nguồn ngân sách địa phương không hỗ trợ bởi điều kiện kinh tế của địa phương còn rất khó khăn.

Bảng 2.10. Ý kiến của cán bộ quản lý về sử dụng phương pháp, phương tiện dạy học và cơ sở vật chất trong dạy học môn Giáo dục thể chất


TT


Nội dung - Yêu cầu

Mức độ

Tổng số phiếu

Điểm trung bình


Thứ bậc

Khó khăn

Bình thường

Không khó

khăn

1

Có đủ giáo viên được đào tạo về

phương pháp môn GDTC

30

35

0

65

2.46

6

2

Điều kiện về dụng cụ thể thao, sân

bãi cho luyện tập

48

17

0

65

2.73

2

3

Xây dựng kế hoạch thực hiện

chương trình GDTC

43

18

4

65

2.6

4

4

Phân công giáo viên giảng dạy

môn GDTC

0

48

17

65

1.73

7

5

Thực hiện đủ giờ theo kế hoạch

dạy học

0

43

22

65

1.66

8

6

Tổ chức các hoạt động văn hoá thể

thao trong trường

0

22

43

65

1.33

9

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 147 trang tài liệu này.

Quản lý hoạt động dạy học môn giáo dục thể chất đáp ứng yêu cầu chương trình giáo dục phổ thông mới ở các trường trung học cơ sở huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang - 9

Tổ chức h/s tham gia các hoạt động

thể thao ở địa phương

57

8

0

65

2.87

1

8

Kiểm tra đánh giá kết quả GDTC

39

26

0

65

2.6

4

9

Kinh phí tổ chức các hoạt động GDTC

43

22

0

65

2.66

3

7

Do đó kinh phí cho các hoạt động GDTC là rất ít ỏi trong khi nhiều công việc tại các nhà trường cần đến nguồn ngân sách này. Khó khăn tiếp theo là khó khăn về việc xây dựng kế hoạch thực hiện chương trình GDTC và kế hoạch kiểm tra đánh giá kết quả GDTC. Việc kiểm tra đánh giá theo kế hoạch dạy học căn cứ vào chương trình do Bộ GD&ĐT mặc dù vẫn được thực hiện đúng nhưng điều đó chưa đủ để đánh giá chất lượng GDTC của các nhà trường bởi việc đánh giá hiện tại chỉ dừng ở việc kiểm tra đánh giá về kiến thức về kỹ năng, kỹ xảo vận động cơ bản. Những kiến thức khác về GDTC như: Phòng tránh chấn thương; sơ cứu nạn nhân bị tai nạn chấn thương; vệ sinh học đường; vệ sinh dinh dưỡng; môi trường; phòng ngừa tệ nạn xã hội… là chưa có biện pháp kiểm tra cũng như chưa được quan tâm đúng mức

Các khó khăn tiếp theo là khó khăn về thiếu giáo viên TDTT, đây là thực trạng tại các trường THCS huyện Lục Nam trong nhiều năm qua. Do chưa đưa ra được mục tiêu cụ thể về các mặt hoạt động GDTC, về kiến thức, kỹ năng, vệ sinh thân thể, phòng chống bệnh tật, phòng tránh chấn thương... nên việc xây dựng kế hoạch chưa cụ thể và chi tiết, mới chỉ đưa ra mục tiêu về kỹ năng vận động. Giáo viên thể dục thiếu về số lượng và chất lượng, nhiều trường không có GV chuyên trách dẫn đến có Trường phải sắp xếp dạy chéo môn. Đây là khó khăn không thể giải quyết trong một thời gian ngắn mà đòi hỏi các nhà quản lý phải có kế hoạch để tăng cường số lượng, có biện pháp bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ GV giảng dạy GDTC nhằm khắc phục tình trạng hiện tại.

Việc thiếu giáo viên dẫn đến khó khăn trong việc tổ chức phân công nhiệm vụ theo đúng chức năng chuyên môn, giáo viên thể dục phải đảm nhiệm nhiều hoạt động ngoài giờ, số lượng giờ làm việc vượt quá quy định gây sức ép về thời gian và khó có thể đảm bảo tốt chất lượng công việc.Căn cứ vào kết quả thăm dò ý kiến của cán bộ quản lý và giáo viên thể dục, giáo viên chủ nhiệm về những khó khăn khi tổ chức hoạt động GDTC tacó thể nhận thấy: Cán bộ quản lý còn chưa quan tâm đúng mức đến tổ chức hực hiện mục tiêu GDTC ở trường THCS. Hoặc nhận thức được tầm quan trọng nhưng kế hoạch hành động cụ thể thì vẫn chưa có. Sự nhiệt tình nỗ lực của giáo viên thể dục còn thiếu, chưa thực sự nêu cao trách nhiệm của bản thân trước nhiệm vụ chung của sự nghiệp, của phong trào.

Về nguyên nhân khách quan: Đây là một trong những khó khăn luôn được bàn đến mà chưa có hướng giải quyết. Dựa vào thực trạng điều tra cho thấy việc thiếu sân bãi, thiếu trang thiết bị luyện tập phục vụ cho việc tổ chức các hoạt động là rất khó khăn. Qua tìm hiểu thực tế tác giả nhận thấy rằng hầu như các trường đều thiếu sân chơi bãi tập, đặc biệt ở các trường học 2 ca thì việc tổ chức hoạt động vào buổi chiều lại ảnh hưởng đến việc học tập văn hoá của các lớp khác vì đa số các nhà trường chỉ có một sân sinh hoạt chung. Các khó khăn về kinh phí để đầu tư cho các hoạt động ngoài giờ cũng là nguyên nhân làm cho các hoạt động giáo dục thể chất ngoài giờ lên lớp của học sinh thiếu phong phú, thiếu chất lượng… làm cho sự nhiệt tình của cán bộ phụ trách các hoạt động này ngày một giảm sút, không thu hút được sự tham gia của học sinh.

Một trong những hạn chế gây ảnh hưởng cho việc thực hiện các hoạt động dạy học môn GDTC và ngoài giờ lên lớp là việc đánh giá, kiểm tra kết quả học tập và hoạt động gần như bỏ ngỏ không có tiêu chí cụ thể. Các mục tiêu chỉ dừng lại ở mức độ chung là có hoạt động còn hiệu quả, chất lượng, tác dụng thì chưa được đề cập đến. Lý do này dẫn đến hệ quả việc tìm ra cách thức mới biện pháp mới nhằm tổ chức có hiệu quả hơn các hoạt động ngoài giờ không được khuyến khích, sáng tạo. Một số cơ sở giáo dục có địa bàn dân cư xa trường dẫn đến việc tập trung học sinh đến trường tham gia các hoạt động là khó khăn, điều kiện kinh tế địa phương còn nhiều hạn chế nên học sinh ngoài giờ lên lớp chính khoá phải thường xuyên phụ giúp cha mẹ làm việc nhà. Lực lượng tổ chức các hoạt động GDTC ngoài giờ không đủ hoặc không đảm bảo trình độ tổ chức dẫn đến nội dung hoạt động nghèo nàn, không thu hút được sự tham gia nhiệt tình.

Khó khăn được xếp ở mức cao trong bảng thăm dò ý kiến về những khó khăn khi tổ chức hoạt động dạy học môn GDTC là vấn đề thiếu kinh phí cho các hoạt động.

Đây cũng là một trong những nguyên nhân khách quan ảnh hưởng lớn đến việc thực hiện mục tiêu dạy học môn GDTC.

2.4.5. Thực trạng hoạt động bồi dưỡng học sinh có năng khiếu môn Giáo dục thể chất

Việc bồi dưỡng các học sinh có năng khiếu về các môn thể thao vẫn được các nhà trường thực hiện, mặc dù vậy thì không được thường xuyên và đồng bộ các bộ môn. Do vấn đề về kinh phí mà các trường thường chỉ căn cứ vào kế hoạch tổ chức Hội khỏe phù đổng của năm học và chọn các môn thể thao dự theo thế mạnh của địa phương để tham gia do vậy thường số lượng các trường tham gia đồng đều ở các bộ môn là ít,

thậm chí có những môn không thể tổ chức thi các cấp (từ cấp huyện trở lên được) do có quá ít đội hoặc vận động viên tham gia.

Ngoài ra vấn đề cản trở việc bồi dưỡng các em học sinh có năng khiếu về TDTT còn bị chi phối và ảnh hưởng bởi yếu tố người thầy. Cơ bản các giáo viên tham gia giảng dạy và bồi dưỡng đều do lòng đam mê bỏ công sức để huấn luyện các em còn việc hỗ trợ kinh phí để chi trả cho các giáo viên này là rất hạn chế. Việc xã hội hóa các hoạt động này ở các trường địa bàn nông thôn và miền núi rất hạn chế.

Hình thức tổ chức hoạt động GDTC cho học sinh được tiến hành chủ yếu dưới hai hình thức, giờ học chính khoá và giờ ngoại khoá. Các giờ học chính khoá là chương trình được thực hiện theo quy định có tính chất pháp quy và đây được coi là phần thực hiện không thể thiếu ở hầu hết các nhà trường. Các giờ ngoại khoá bao gồm hoạt động thể dục giữa giờ, các buổi sinh hoạt theo chủ điểm có tổ chức các hoạt động vui chơi giải trí mang tính vận động, các hoạt động thi đấu thể thao của học sinh trong trường và giữa các trường với nhau…Hoạt động nội khoá là chương trình bắt buộc nên các nhà trường đều tổ chức thực hiện nghiêm chỉnh theo mục tiêu kế hoạch đã đề ra trong từng năm học.Việc triển khai các nội dung chương trình được tiến hành hàng ngày, hàng tuần và có sự kiểm tra giám sát đều đặn của cán bộ quản lý. Khó khăn trong thực hiện nhiệm vụ này là ở một số trường không đủ giáo viên theo biên chếq uy định, hoặc trình độ giáo viên không đảm bảo. Việc thiếu giáo viên dẫn đến việc dạy dồn, dạy ghép các lớp trong cùng khối; có những trường phân công giáo viên dạy các môn khác còn ít giờ dạy thêm môn thể dục, mặc dù họ không đủ năng lực dạy môn này.

Với hoạt động GDTC ngoài giờ lên lớp, đây là mảng hoạt động còn nhiều hạn chế ở hầu hết các trường. Cụ thể là các hoạt động mới chỉ dừng lại ở một số hoạt động như thể dục giữa giờ, sinh hoạt Đoàn Đội có nội dung GDTC như trò chơi vận động... mặc dù vậy thì những hoạt động này cũng chỉ mang tính hình thức còn về bản chất thì chưa thể hiện được vai trò của nó. Việc tổ chức các hoạt động thể thao ngoài giờ cho học sinh như việc tổ chức các câu lạc bộ thể thao, tổ chức các hoạt động thi đấu giao lưu, giao hữu giữa các lớp trong cùng một trường, giữa các trường với nhau hầu như là còn bị bỏ ngỏ trong nhiều năm qua.

Để đánh giá, thực trạng thực hiện GDTC ngoài giờ lên lớp của học sinh, đề tài đã xây dựng phiếu hỏi mức độ thực hiện các hoạt động ngoại khoá môn thể dục của học sinh.Tác giả khảo sát ở một nhóm đối tượng là 65 cán bộ quản lý của Sở GD&ĐT Bắc Giang, Phòng Giáo dục và đào tạo huyện Lục Nam và 31 trường THCS trên địa bàn huyện Lục Nam. Kết quả khảo sát được thể hiện ở các bảng 2.11:

Bảng 2.11. Thực trạng hoạt động bồi dưỡng học sinh có năng khiếu Giáo dục thể chất


TT


Nội dung - Yêu cầu

Mức độ

Tổng số phiếu

Điểm trung bình


Thứ bậc

Thường xuyên

Không thường

xuyên

Không thực

hiện

1

Hằng năm, xây dựng kế hoạch bồi dưỡng HS có năng kiếu TDTT

50

15

0

65

2.77

1

2

Giáo viên có đủ năng lực để bồi dưỡng nhiều môn

20

40

5

65

2.23

3

3

Cơ sở vật chất đáp ứng việc bồi dưỡng HS có năng khiếu

26

38

1

65

2.38

2


4

Phối hợp với các trung tâm huấn

luyện trong việc bồi dưỡng HS có năng khiếu


2


6


57


65


1.15


6

5

Tổ chức giải TDTT cấp trường để tuyển chọn HS có năng khiếu

12

10

43

65

1.52

5

6

Chỉ bồi dưỡng số ít môn mà giáo viên nhà trường thực hiện được

6

31

28

65

1.66

4







1.95


Qua kết quả khảo sát, có thể thấy rằng, các nội dung quản lý hoạt động GDTC ngoài giờ học chính khoá trên lớp của các nhà trường còn cơ bản thực hiện ở mức độ trung bình và chưa tốt.

2.4.6. Thực trạng hoạt động kiểm tra, đánh giá kết quả học tập môn Giáo dục thể chất của học sinh

Thực tế tại các trường THCShuyện Lục Nam trong những năm qua hoạt động kiểm tra, đánh giá được coi trọng và tiến hành thường xuyên, đều đặn. Hoạt động GDTC cũng được quan tâm và kiểm tra đánh giá theo lịch trình, kế hoạch của các Nhà trường. Tuy nhiên, căn cứ vào kết quả điều tra ở bảng 2.12 nhận thấy hoạt động kiểm tra, đánh giá kết quả hoạt động dạy học môn GDTC là một khó khăn xếp ở vị trí thứ 4, đây là khó khăn ở hầu hết các trường và nó thể hiện cụ thể ở hai mặt sau:

Thứ nhất: Việc kiểm tra đánh giá chất lượng dạy học môn GDTC đối với học sinh. Theo kế hoạch giáo viên thể dục thực hiện kiểm tra đánh giá trình độ nắm kiến thức, kỹ năng của học sinh và cho điểm. Việc đánh giá này mới chỉ dừng lại ở việc thực hiện một số kỹ năng vận động. Còn một nhiệm vụ quan trọng là đánh giá sức khoẻ của học sinh thì gần như các giáo thể dục không thể đánh giá được và cũng không có nghiệp vụ chuyên môn, điều kiện để đánh giá. Theo quy định việc kiểm tra sức khoẻ định kỳ cho học sinh được tiến hành bởi giáo viên thể dục và cơ quan y tế phối hợp thực hiện. Việc làm này hầu như không được tiến hành trong nhà trường THCS. Bởi vậy chỉ khi học sinh nghỉ học vì

bệnh tật và đi viện thì mới biết được thực tế tình trạng thể lực của các em ra sao. Đó là chưa kể việc đánh giá sự hiểu biết về các kiến thức: Phòng tránh chấn thương, vệ sinh học đường, vệ sinh cá nhân của học sinh chỉ thông qua việc kiểm tra trang phục học tập đầu các giờ thể dục chính khoá, hoặc chưa được kiểm tra.

Thứ hai: Số lượng giáo viên thể dục tại các trường theo biên chế thường không đồng đều, không đủ để thành lập tổ chuyên môn độc lập. Nhiều trường chỉ có GV kiêm nhiệm từ các bộ môn khác. Vì vậy giáo viên thể dục thường sinh hoạt trong các tổ chuyên môn khác và cũng thường chịu sự quản lý của các tổ trưởng chuyên môn thuộc các chuyên ngành khác. Đây là khó khăn trong việc kiểm tra đánh giá trình độ chuyên môn nghiệp vụ của giáo viên thể dục để có biện pháp bồi dưỡng, khắc phục. Đặc thù của bộ môn thể dục có những điểm khác biệt so với các môn văn hoá đơn thuần, khác về môi trường lên lớp, khác về phương pháp, phương tiện, khác về cách đánh giá kiến thức... Vì vậy, ngoài số lượng ít ỏi giáo viên thể dục có thể đánh giá về trình độ chuyên môn, chất lượng giờ dạy thể dục của chính giáo viên thể dục thì việc đánh giá của các giáo viên khác gặp nhiều khó khăn. Xuất phát từ lý do đó, việc đánh giá, nhận xét giờ học, trình độ chuyên môn của giáo viên thể dục đối với các giáo viên khác cũng là cản trở, gây tâm lý e ngại cho người phải đánh giá, kiểm tra. Nhiều năm diễn ra tình trạng như vậy dẫn đến một thực tế là việc đánh giá chất lượng giảng dạy,trình độ chuyên môn của giáo viên thể dục vẫn bị bỏ ngỏ, giao phó hoàn toàn cho tinh thần tự giác và lương tâm của chính các giáo viên thể dục.

Bảng 2.12. Thực trạng hoạt động kiểm tra, đánh giá kết quả học tập môn Giáo dục thể chất của học sinh‌


TT

Hình thức kiểm tra, đánh giá kết quả học tập

Mức độ thực hiện

Tổng số phiếu

Điểm trung bình


Thứ bậc

Thường

xuyên

Đôi

khi

Chưa

khi nào


1

Đánh giá kết quả học tập của học

sinh thông qua các bài kiểm tra thường xuyên, định kì


58


0


0


58


2.68


1


2

Đánh giá các kĩ năng giải quyết

nhiệm vụ học tập thông qua tổ chức hoạt động theo nhóm


51


7


0


58


2.57


3

3

Đánh giá kĩ năng

38

20

0

58

2.37

4

4

Đánh giá thái độ học tập của học

sinh sau khi học xong bài học

25

33

0

58

2.17

5


5

Đánh giá học sinh ngay trong quá

trình học tập bằng những nhận xét, góp ý


19


32


7


58


1.97


6


6

Đánh giá học sinh sau khi hoàn thành

những bài tập cụ thể hoặc việc hoàn thành nhiệm vụ được giao


58


0


0


58


2.68


1






2.41


Nguyên nhân gây ra những khó khăn trên là do điều kiện về đội ngũ, về cơ sở vật chất, tài chính khó khăn. Mặt khác là do công tác quản lý chưa có kế hoạch và những mục tiêu cụ thể về GDTC, chưa kiểm tra đánh giá thường xuyên, động viên khích lệ đội ngũ giáo viên, học sinh thực hiện nhiệm vụ dạy học môn GDTC trong nhà trường trong những năm qua.

2.5. Thực trạng quản lý dạy học môn Giáo dục thể chất đáp ứng yêu cầu chương trình giáo dục phổ thông mới ở các trường trung học cơ sở huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang

2.5.1. Thực trạng nhận thức về tầm quan trọng của công tác quản lý hoạt động dạy học môn Giáo dục thể chất đáp ứng yêu cầu chương trình giáo dục phổ thông mới ở các trường trung học cơ sở huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang

Nhằm khảo sát thực trạng nhận thức về tầm quan trong của quản lý hoạt động dạy học môn GDTC đáp ứng yêu cầu chương trình giáo dục phổ thông mới ở các trường THCS huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang tác giả đã xây dựng bộ câu hỏi bao gồm câu hỏi liên quan đến khái niệm, tầm quan trọngvà nội dung quản lý hoạt động dạy học môn GDTC đáp ứng yêu cầu chương trình giáo dục phổ thông mới. Kết quả thu được Bảng 2.13:

Bảng 2.13. Kết quả khảo sátmức độ quan trọng của hoạt động dạy học môn Giáo dục thể chất đối với HS THCS


Kết quả điều tra

Rất quan trọng

Bình

thường

Không quan trọng

Khách thể điều tra

n

%

n

%

n

%

Cán bộ quản lý (n = 65)

30

46.1

35

53.9

0

0

Giáo viên (n = 57)

19

33.3

38

66.7

0

0

Học sinh (n = 500)

87

17.4

342

68.4

71

14.2

Phụ huynh học sinh (n = 200)

13

6.5

187

93.5

0

0

Tổng cộng

149

18.1

602

73.2

71

8.6

Qua bảng 2.13 cho thấy: Cán bộ quản lý và giáo viên chỉ có từ 33.3% đến46,1% nhận thức vai trò phát triển của GDTC trong giáo dục học sinh là ở mức rất quan trọng,

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 04/07/2023