Một Số Giải Pháp Quản Lý Hoạt Động Đánh Giá Kết Quả Học Tập Của Sinh Viên Đại Học Sư Phạm Theo Tiếp Cận Năng Lực


lượt là 4.20 và 4.18 ở mức 4. Sự phát triển của khoa học công nghệ đã tác động không nhỏ đến hoạt động ĐG trong quá trình đào tạo trong trường ĐHSP. Hiện nay cùng sự phát triển CNTT có rất nhiều kỹ thuật đánh giá KQHT được ứng dụng CNTT. Các phần mềm chuyên dụng như ĐG về đề thi trắc nghiệm khách quan (độ khó, độ phân biệt, độ tin cậy) hay đánh giá NL qua thi trực tuyến, ứng dụng trong thu thập thông tin về SV. Yếu tố này ảnh hưởng đến không nhỏ đến hiệu quả QL hoạt động đánh giá KQHT của sinh viên ĐHSP theo TCNL .

- Các qui chế, qui định, hướng dẫn về đánh giá KQHT của SV: Hiện nay các trường ĐHSP đang chuyển từ đào tào tiếp cận nội dung sang đào tạo theo TCNL. Vì vậy, sự quan tâm đến việc quy định, hướng dẫn về đánh giá KQHT của sinh viên trong trường ĐHSP đã thu hút được sự quan tâm hơn từ phía lãnh đạo nhà trường.

Các ý kiến đánh giá của các đối tượng khảo sát đều ở mức cao, với giá trị X= 3.97 (mức 4). Điều đó thực sự rất cần thiết và hỗ trợ cho CBQL, giảng viên và sinh viên thực hiện hoạt động đánh giá KQHT của SV theo TCNL một cách đúng đắn và chính xác hơn.

- Cơ chế QL, môi trường văn hóa của các trường ĐHSP : Đối với nội dung


này, các đối tượng khảo sát đều ĐG cao với giá trị trung bình chung X lần lượt là

4.02 và 4.00 với mức 4. Môi trường văn hóa của các trường ĐHSP có nét đặc thù khác với các trường ngoài SP. Một đặc điểm nổi bật là sinh viên ĐHSP được đào tạo hiện nay là trở thành GV có nhân cách phát triển toàn diện. Đây là một môi trường đào tạo nghề dạy học. Ngoài chuyên môn, SV còn phải học được cách học, học cách dạy, học cách GD, học cách ứng xử… để đủ tự tin đứng trên bục giảng khi tốt nghiệp ra trường. Môi trường đào tạo SP cần xây dựng được nền tảng tri thức căn cốt của nghề dạy học (hay còn gọi là nền tảng lý luận về khoa học SP), và còn có sự gắn kết hài hòa giữa đào tạo và GD. Môi trường đào tạo SP cần xây dựng môi trường hoạt động có tính chuyên nghiệp hóa. Đó chính là định hướng chủ đạo trong phát triển đào tạo đội ngũ GV.

- Yếu tố tài chính, CSVC, kỹ thuật: Trước bối cảnh đổi mới GD hiện nay, các trường ĐHSP đã thực sự có sự đầu tư tài chính, CSVC, kỹ thuật vào hoạt động đánh giá KQHT của SV theo TCNL, và các đối tượng khảo sát đều ĐG cao với

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 236 trang tài liệu này.

X= 4.09 và X= 4.10 đối với CBQL, giảng viên và SV. Các trường ĐHSP đã xây


Quản lý hoạt động đánh giá kết quả học tập của sinh viên đại học sư phạm theo tiếp cận năng lực - 15

dựng các viện thực hành, đầu tư các phòng học, hệ thống dạy học tiên tiến hơn… Tuy nhiên, cũng có một số ý kiến cho rằng, việc đầu tư đó chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu đặc thù trong trường ĐHSP. Và các đối tượng khảo sát cho rằng, yếu tố tài chính, CSVC, kỹ thuật cũng ảnh hưởng lớn đến chất lượng của hoạt động đánh giá KQHT của sinh viên theo TCNL chưa thực sự hiệu quả.

- Nhận thức của CBQL, giảng viên về đánh giá KQHT của SV theo TCNL:


Với giá trị trung bình chung X= 4.05 ở mức 4 cho thấy: trình độ nhận thức, năng lực CBQL, giảng viên có ảnh hưởng rất lớn trong hoạt động ĐG. Phát huy NL thế mạnh của GV trong giảng dạy, CBQL trong quản lý các hoạt động đào tạo sẽ tạo điều kiện nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo. Các lý do trên tác động không nhỏ đến chất lượng, hiệu quả đánh giá KQHT của sinh viên ĐHSP theo TCNL.

- Năng lực vận dụng các phương pháp, hình thức đánh giá KQHT theo TCNL của giảng viên ĐHSP: Các đối tượng được khảo sát ĐG chưa cao ở nội dung này, với các giá trị trung bình chung lần lượt là 3.34 và 3.56 ở mức 3. Điều này cho thấy: GV chưa thực sự vận dụng tốt các phương pháp, hình thức đánh giá KQHT theo TCNL.

- Năng lực đội ngũ cán bộ chuyên trách về ĐG: Các đối tượng khảo sát ĐG


không cao ở nội dung này, với X= 3.32 ~ 3.33 ở mức 3. Thực tế cho thấy rằng, Phòng/ban, TTKT và ĐBCL tại các cơ sở đào tạo SP thường là cơ quan mới được thành lập, có thể là một phần được tách ra từ phòng/ban đào tạo, cán bộ thuộc các đơn vị này có thể là kiêm nhiệm nên chưa có sự nhận thức hết chức năng, nhiệm vụ, vai trò, tầm quan trọng của khảo thí và ĐBCL. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến việc chỉ đạo tham mưu, đề xuất trong hoạt động ĐG trong trường ĐHSP.

- Nhận thức và NL tự đánh giá của SV: Các đối tượng khảo sát đều đánh giá ở


nội dung này khá cao, X= 3.65 đối với CBQL, giảng viên và X= 3.78 đối với sinh viên. Điều đó cho thấy, CBQL, giảng viên và sinh viên đều có nhận thức rõ vai trò và trách nhiệm của mình trong hoạt động đánh giá KQHT như thế nào.

2.6. Đánh giá chung về thực trạng

2.6.1. Mặt mạnh

Trong những năm gần đây các trường ĐHSP đã chú trọng đổi mới phương thức đào tạo, trong đó có đánh giá KQHT của SV nhằm đáp ứng nhu cầu xã hội và yêu cầu của đổi mới GDPT.


Các trường ĐHSP được khảo sát đã bước đầu quan tâm đổi mới hoạt động đánh giá KQHT của SV theo TCNL như: ngoài ĐG chủ yếu về kiến thức của SV đã quan tâm ĐG các NL sư phạm, khuyến khích GV sử dụng đa dạng các phương pháp, hình thức ĐG, chú trọng hơn đến ĐG quá trình… Đồng thời, hoạt động đánh giá KQHT của SV đã bước đầu đảm bảo các nguyên tắc ĐG như khách quan, công bằng, công khai.

Kết quả khảo sát cũng cho thấy CBQL, giảng viên các trường ĐHSP đã nhận thức đúng về tính ưu việt của đào tạo theo TCNL, về vai trò của ĐG và quản lý hoạt động đánh giá KQHT của SV theo TCNL, có tinh thần trách nhiệm, tâm huyết, chủ động trong đổi ĐG. Đội ngũ GV có NL, tâm huyết với nghề, có nghiệp vụ, đồng thuận, biết chia sẻ kinh nghiệm với đồng nghiệp và luôn cầu tiến, thể hiện được sự quyết tâm đổi mới, sáng tạo trong dạy học và ĐG.

Các trường ĐHSP đã chú trọng tính kế hoạch trong hoạt động đánh giá KQHT của SV, đã có những biện pháp tổ chức và chỉ đạo hoạt động này theo kế hoạch dự kiến và qui trình ĐG. Đồng thời đã quan tâm đầu tư CSVC, đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong hoạt động đánh giá KQHT của SV.

2.6.2. Mặt hạn chế

Bên cạnh những mặt mạnh trên, hoạt động ĐG và QL hoạt động đánh giá

KQHT của SV ở các trường ĐHSP vẫn còn một số hạn chế nhất định. Cụ thể:

- Một bộ phận CBQL, giảng viên chưa nhận thức đầy đủ về vai trò, bản chất của đánh giá KQHT của SV theo TCNL, chưa kết hợp tốt giữa ĐG “định tính” và “định lượng”, chậm đổi mới phương pháp, hình thức ĐG. Các phương pháp ĐG về định tính như quan sát, nhận xét, ĐG bằng hồ sơ học tập…chưa được chú trọng, vẫn còn hiện tượng coi trọng ĐG định lượng thông qua “điểm số”. Các hình thức ĐG quá trình học tập của SV tuy được quan tâm nhưng việc thực hiện có lúc có nơi vẫn còn hạn chế, chủ yếu là thực hiện ĐG tổng kết sau mỗi học kì. Việc tạo cơ hội cho SV đánh giá KQHT lẫn nhau còn hạn chế.

- NL đánh giá KQHT theo TCNL ở một số GV còn hạn chế, nhất là NL vận dụng các phương pháp, hình thức ĐG hiện đại, ứng dụng CNTT trong kiểm tra, ĐG theo TCNL, kỹ năng về chấm bài, trả bài, nhận xét, phản hồi, sử dụng kết quả phản hồi còn hạn chế… Một số GV còn thiếu kỹ năng xây dựng ngân hàng câu hỏi thi, đáp án theo TCNL, câu hỏi đề thi chưa đo chính xác các mức độ NL của SV. Vì


vậy, việc đánh giá KQHT của SV có lúc, có nơi chưa thực sự đảm bảo tính khách

quan, chính xác, toàn diện và vì sự tiến bộ và sự phát triển NL của SV.

- Việc xây dựng kế hoạch, quy trình, tiêu chuẩn, tiêu chí ĐG năng lực của SV ở một số trường ĐHSP chưa thật quy củ và bài bản; chưa quan tâm đúng mức về quá trình thu thập thông tin và xử lý thông tin phản hồi về KQHT của SV trong quá trình giảng dạy và kết thúc môn học.

- Kết quả khảo sát cũng đã cho thấy công tác tổ chức và chỉ đạo hoạt động đánh giá KQHT của SV theo TCNL vẫn còn những bất cập nhất định, chưa thực sự bài bản. Vẫn còn hiện tượng chưa phối hợp chặt chẽ giữa các phòng ban chức năng và GV trong QL hoạt động đánh giá KQHT của SV theo TCNL.

- CSVC, hạ tầng CNTT phục vụ cho hoạt động đánh giá KQHT của SV ở một số trường vẫn chưa đáp ứng tốt. Vẫn còn những bất cập trong cơ chế, chính sách về kinh phí cho hoạt động ĐG.

2.6.3. Nguyên nhân của thực trạng

Nguyên nhân của những điểm mạnh

- GD&ĐT của nước ta đang đổi mới căn bản và toàn diện ở tất cả các cấp học, bậc học. Đảng và Nhà nước quan tâm đến GD&ĐT coi GD&ĐT là quốc sách hàng đầu, đầu tư cho GD là đầu tư cho sự phát triển của đất nước. Trong các nội dung đổi mới GD&ĐT, đổi mới đánh giá KQHT theo định hướng phát triển NL người học là khâu đột phá. Trên cơ sở các định hướng chiến lược đó, các trường ĐH nói chung, ĐHSP nói riêng đã đổi mới nội dung, phương thức đào tạo trong đó có khâu ĐG để phù hợp với sự phát triển của khoa học công nghệ, xu thế toàn cầu hóa và đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước.

- Lãnh đạo, CBQL các trường ĐHSP nhận thức đúng về tính ưu việt của đào tạo theo TCNL, về vai trò của ĐG và QL hoạt động đánh giá KQHT của SV theo TCNL, có tinh thần trách nhiệm, tâm huyết với sự nghiệp đổi mới GDĐH. Phần lớn đội ngũ GV trường ĐHSP có trình độ, có NL sư phạm, tâm huyết với nghề, tích cực, chủ động sáng tạo trong dạy học và đánh giá.

Nguyên nhân của những hạn chế

Một bộ phận CBQL, giảng viên ở các trường ĐHSP chưa nhận thức đầy đủ về sự cần thiết phải QL hoạt động đánh giá KQHT của SV theo TCNL, chậm và còn ngại đổi mới về nội dung, phương thức đánh giá KQHT của SV theo TCNL.


- Kế hoạch đánh giá KQHT của SV theo TCNL còn chưa được xây dựng phù hợp với hoạt động đào tạo của từng trường ĐHSP, làm cho hoạt động ĐG ở một số nơi còn bị động.

- Việc tổ chức, chỉ đạo hoạt động đánh giá KQHT của sinh viên ĐHSP theo TCNL ở một số trường còn chưa theo một quy trình chặt chẽ, thiếu sự phối hợp nhịp nhàng giữa các phòng ban chức năng và đội ngũ GV.

- Hoạt động bồi dưỡng nâng cao NL đội ngũ CBQL, giảng viên về đánh giá

KQHT của sinh viên ĐHSP theo TCNL chưa đem lại hiệu quả.

- Chưa xây dựng được khung NL của sinh viên ĐHSP theo TCNL

- Các điều kiện đảm bảo cho QL hoạt động đánh giá KQHT của SV theo

TCNL chưa được thiết lập một cách đầy đủ…

Những nguyên nhân trên đã ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả đánh giá KQHT của SV theo TCNL ở các ĐHSP. Vì vậy cần có những giải pháp hữu hiệu để khắc phúc những hạn chế trên để nâng cao hiệu quả ĐG, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo GV ở trường ĐHSP, đáp ứng yêu cầu đổi mới GDPT.


KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

Từ các kết quả nghiên cứu ở Chương 2, chúng tôi rút ra các kết luận sau đây:

1. Trong những năm qua, nhất là từ khi có Nghị quyết số 29-NQ/TW của Ban chấp hành Trung ương (khóa XI) về đổi mới căn bản, toàn diện GD&ĐT, hoạt động đánh giá KQHT của SV và QL hoạt động đánh giá KQHT của SV theo TCNL, các trường/khoa ĐHSP đã có nhiều hoạt động nâng cao chất lượng ĐG và QL hoạt động đánh giá KQHT và đã có những kết quả đáng khích lệ. Cụ thể: Lãnh đạo các trường SP, các phòng ban chuyên trách đã chú trọng tổ chức và chỉ đạo thực hiện hoạt động đánh giá KQHT của SV theo TCNL. Về cơ bản, công tác QL hoạt động đánh giá KQHT theo TCNL đang hướng đến thực hiện đúng bản chất trong điều kiện và bối cảnh của nhà trường đào tạo SV sư phạm. Trong từng hoạt động ĐG và quản lý đánh giá KQHT của SV, nhiều tiêu chí đã đạt được ở mức độ tốt. Đa số CBQL, giảng viên và SV các trường ĐHSP đã quan tâm, chú trọng đến hoạt động đánh giá KQHT của SV theo TCNL, đã thực hiện hoạt động đánh giá KQHT của SV với các phương pháp và hình thức, đa dạng. Bước đầu đã hình thành đội ngũ chuyên trách có sự đồng thuận, tâm huyết với nghề nghiệp, thái độ, động cơ làm việc nghiêm túc, có tinh thần trách nhiệm, năng động, sáng tạo trong thực hiện hoạt động đánh giá KQHT của SV.

2. Kết quả khảo sát thực trạng cho thấy: ĐG và quản lý hoạt động đánh giá KQHT của SV theo TCNL thì các trường/ngành ĐHSP vẫn còn nhiều hạn chế cần khắc phục, như: Nhận thức, hiểu biết về bản chất, cách thức đánh giá KQHT của SV theo TCNL của CBQL, giảng viên, SV chưa cao. Việc tổ chức bộ máy, chỉ đạo, lập kế hoạch, quy trình đánh giá KQHT của SV theo TCNL còn thiếu tính đồng bộ, thống nhất giữa các bộ phận chức năng và đội ngũ GV. Một số tiêu chí về ĐG và quản lý hoạt động đánh giá KQHT của SV theo TCNL được ĐG là chưa đạt hoặc chỉ đạt. Công tác kiểm tra, giám sát ĐG và quản lý hoạt động đánh giá KQHT của sinh viên ĐHSP theo TCNL chưa thật sự bài bản, chưa chặt chẽ nên hiệu quả chưa cao.

3. Yếu tố khách quan và chủ quan có ảnh hưởng không nhỏ đến quản lý hoạt động đánh giá KQHT của SV theo TCNL. Các điều kiện đảm bảo đóng vai trò quan trọng trong quản lý hoạt động đánh giá KQHT của sinh viên ĐHSP theo TCNL.

Từ thực trạng trên, chúng tôi nhận thấy cần phải xây dựng các giải pháp quản lý hoạt động đánh giá KQHT của sinh viên ĐHSP theo TCNL, góp phần nâng cao chất lượng GDĐH và đổi mới GDPT trong bối cảnh hiện nay.


Chương 3

GIẢI PHÁP QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THEO TIẾP CẬN NĂNG LỰC


3.1. Nguyên tắc đề xuất giải pháp

3.1.1. Bảo đảm tính mục tiêu

Nguyên tắc này đòi hỏi các giải pháp được đề xuất phải hướng vào việc nâng cao hiệu quả quản lý hoạt động đánh giá KQHT của SV theo TCNL; góp phần nâng cao chất lượng đào tạo của các trường ĐHSP.

3.1.2. Bảo đảm tính thực tiễn

Nguyên tắc này đòi hỏi các giải pháp được đề xuất phải phù hợp với thực tiễn quản lý hoạt động đánh giá KQHT của SV theo TCNL của các trường ĐH nói chung, các trường ĐHSP nói riêng trong bối cảnh đổi mới mạnh mẽ mục tiêu, nội dung, phương pháp đào tạo và đánh giá KQHT, rèn luyện của SV theo yêu cầu CĐR của từng trường và chuẩn nghề nghiệp GV các cấp.

3.1.3. Bảo đảm tính hệ thống

Nguyên tắc này đòi hỏi các giải pháp được đề xuất phải tác động đồng bộ đến các thành phần của hệ thống QL hoạt động đánh giá KQHT của SV theo TCNL của các trường ĐHSP, đồng thời các giải pháp phải có mối liên hệ mật thiết với nhau, hỗ trợ cho nhau, thúc đẩy lẫn nhau nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp của một chỉnh thể thống nhất.

3.1.4. Bảo đảm tính hiệu quả

Nguyên tắc này đòi hỏi các giải pháp được đề xuất phải đem lại hiệu quả cao trong quản lý hoạt động đánh giá KQHT của SV theo TCNL của các trường ĐHSP, góp phần xây dựng các trường ĐHSP tiên tiến, hiện đại.

3.1.5. Bảo đảm tính khả thi

Nguyên tắc này đòi hỏi các giải pháp được đề xuất phải có khả năng áp dụng một cách thuận lợi, rộng rãi trong quản lý hoạt động đánh giá KQHT của SV theo TCNL ở các trường ĐHSP có những nét đặc thù khác nhau trong cả nước.

3.2. Một số giải pháp quản lý hoạt động đánh giá kết quả học tập của sinh viên đại học sư phạm theo tiếp cận năng lực

3.2.1. Tổ chức nâng cao nhận thức cho cán bộ quản lý, giảng viên đại học sư phạm về quản lý hoạt động đánh giá kết quả học tập của sinh viên theo tiếp cận năng lực

3.2.1.1. Ý nghĩa và mục tiêu của giải pháp

Nhận thức là hành động, là quá trình tiếp thu kiến thức và những am hiểu thông qua suy nghĩ, là tiền đề của hoạt động thực tiễn, có nhận thức đúng đắn thì


mới có hành động đúng. Đổi mới và phát triển CTĐT theo TCNL là một hoạt động tác động lên cả hệ thống chính trị, các tổ chức chuyên môn và xuyên suốt quá trình dạy học trong nhà trường.

Giải pháp này nhằm giúp cho CBQL và GV nhận thức rõ về vai trò, vị trí, trách nhiệm, nghĩa vụ của mình trong chiến lược đổi mới căn bản, toàn diện GD, đào tạo của đất nước, của ngành GD và nhà trường, thấy rõ tính ưu việt của phương thức đào tạo mới và sự cần thiết phải đổi mới hoạt động ĐG và QL hoạt động ĐG theo TCNL, tạo ra sự thống nhất trong nhận thức về tầm quan trọng và sự cần thiết phải QL hoạt động đánh giá KQHT của SV theo TCNL. Phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của cán bộ, GV, sinh viên để phát triển CTĐT và thực hiện các hoạt động đào tạo, ĐG kết quả đào tạo của chuyên ngành, khoa đào tạo, cũng như KQHT của SV, tạo tính đồng thuận cao trong QL hoạt động đánh giá KQHT của SV trong nhà trường, ở các khoa, chuyên ngành đào tạo một cách phù hợp, góp phần chính yếu thành công mục tiêu CTĐT theo TCNL và mục tiêu phát triển của từng trường đã đặt ra.

3.2.1.2. Nội dung và cách thực hiện giải pháp

Thứ nhất, tổ chức nâng cao nhận thức cho CBQL, giảng viên về tầm quan trọng của đổi mới ĐG và QL đánh giá KQHT của SV trong quá trình thực hiện CTĐT theo TCNL

Để nâng cao nhận thức của CBQL, giảng viên trong các đơn vị phòng ban, trung tâm, khoa, bộ môn, lãnh đạo nhà trường cần tăng cường sử dụng các phương tiện truyền thông đa dạng để khai thông thông tin về các nội dung đổi mới công tác QL hoạt động đánh giá KQHT của SV, về vai trò, ý nghĩa và tầm quan trọng của QL hoạt động đánh giá KQHT của SV theo TCNL đối với chất lượng đào tạo của nhà trường.

Nhà trường cần cung cấp đầy đủ thông tin để CBQL, giảng viên thấy rõ thực trạng tồn tại của cách QL đánh giá KQHT của SV hiện hành và tính ưu việt của phương thức QL đánh giá KQHT của SV theo TCNL, song song cũng cần làm rõ những khó khăn và thách thức đối với đổi mới QL đánh giá KQHT của SV theo TCNL; Giúp CBQL, giảng viên nhận thức được tính cấp thiết phải thay đổi cách thức QL các hoạt động đánh giá KQHT của SV trong từng cấp QL của nhà trường, của khoa đào tao, từng chuyên ngành, từng bộ môn.

Nhà trường phải làm cho từng GV thấy việc phát triển và áp dụng phương thức QL hoạt động đánh giá KQHT của SV theo TCNL có tác dụng thật sự, đem lại ích lợi trong việc nâng cao NL chuyên môn và nghiệp vụ SP cho mỗi GV, từ đó

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 28/03/2024