Quản Lý Gdhn Ở Trường Thpt Theo Định Hướng Phát Triển Nhân Lực

khiếu…, từ đó góp phần nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài một cách thiết thực, theo đúng định hướng của chiến lược xây dựng kinh tế XH, chiến lược phát triển nhân lực từng giai đoạn CT cụ thể.

- Ý nghĩa xã hội: Nếu làm tốt GDHN, thế hệ trẻ sẽ được định hướng vào cuộc sống lao động, sinh hoạt hằng ngày của thanh thiếu niên sẽ ổn định, từ đó XH cũng ổn định hơn. Nói cách khác, thanh thiếu niên cần được giúp đỡ để tìm được nghề phù hợp với mình và nhu cầu của XH, từ đó, hăng say làm việc và cống hiến, tránh để xảy ra tình trạng “vô công rỗi nghề”, “nhàn cư vi bất thiện”, gây bất ổn trong XH.

1.4.4. Các con đường hướng nghiệp

Để chuyển tải được hết các nội dung trên, NTPT thực hiện GDHN thông qua bốn con đường chủ yếu sau đây [73]:

- Hướng nghiệp qua hoạt động dạy học các môn văn hóa. Thật vậy, môn học nào cũng có khả năng hướng nghiệp của nó. Điều quan trọng là người thầy phải biết kết nối những nội dung giảng dạy với một số nghề cụ thể nào đó nhằm giúp HS có cái nhìn tổng quát về nghề, ươm mầm đam mê nghề nghiệp cho HS. Quá trình giảng dạy các môn văn hóa cũng là quá trình phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu, dẫn dắt sự phát triển năng khiếu của HS, từ đó, người thầy có thể định hướng cho HS có năng khiếu, cho các em những lời khuyên chọn nghề.

- Hướng nghiệp qua hoạt động dạy nghề phổ thông và dạy môn công nghệ. Có thể nói môn công nghệ và dạy nghề phổ thông có khả năng hướng nghiệp rất lớn. Mặc dù HS chưa đi sâu vào kỹ thuật nghề nghiệp nhưng qua việc tìm hiểu một số ngành nghề chủ yếu (công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ), HS có điều kiện hiểu về những ngành nghề trong xã hội. Đặc biệt, với hoạt động dạy nghề phổ thông (tin học, điện dân dụng, chụp ảnh, nấu ăn,...), HS có điều kiện được thực hành một cách nghiêm túc, đầy đủ, được thử sức mình với hoạt động kỹ thuật cụ thể, nhờ đó, các em phát hiện và đánh giá đúng hơn năng lực kỹ thuật của bản thân.

- Hướng nghiệp qua các buổi sinh hoạt hướng nghiệp. Có nhiều cách tổ chức sinh hoạt hướng nghiệp như giao lưu với người thành đạt trong nghề; tìm hiểu các ngành nghề đang cần NL, nhất là những ngành nghề nằm trong dự báo nhu cầu NL của địa phương; tìm hiểu hệ thống các cơ sở đào tạo; tổ chức các buổi tọa đàm, diễn đàn về nghề nghiệp tương lai... tất cả đều nhằm mục đích giáo dục thái độ yêu lao động cũng

như cung cấp cho HS một cái nhìn toàn cảnh về các ngành nghề trong xã hội, các “luồng” mà HS có thể đi tiếp sau khi tốt nghiệp cũng như nhu cầu về NL của quốc gia và địa phương.

- Hướng nghiệp qua các hoạt động tham quan ngoại khóa. Các hoạt động này có khả năng hướng nghiệp to lớn bởi chúng thúc đẩy sự phân hóa năng lực, sự phát triển năng khiếu diễn ra càng mạnh mẽ, nói cách khác, sự nảy sinh hứng thú, thiên hướng, năng lực của HS thường xuất hiện trong các hoạt động ngoại khóa.

Với một cách diễn đạt cụ thể hơn, 4 con đường GDHN nêu trên được chia nhỏ ra thành 10 con đường GDHN chi tiết sau đây: 1/ Hướng nghiệp qua dạy chương trình hướng nghiệp chính khóa; 2/ Hướng nghiệp qua dạy các môn khoa học cơ bản; 3/ Hướng nghiệp qua dạy môn công nghệ; 4/ Hướng nghiệp qua dạy nghề phổ thông; 5/ Hướng nghiệp qua tham quan cơ sở sản xuất; 6/ Hướng nghiệp qua việc mời các chuyên gia nói chuyện; 7/ Hướng nghiệp qua hội thảo, tranh luận theo chủ đề; 8/ Hướng nghiệp qua tham quan các cơ sở đào tạo nghề; 9/ Hướng nghiệp qua tư vấn hướng nghiệp; 10/ Hướng nghiệp qua các hoạt động ngoại khóa khác.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 84 trang tài liệu này.

1.5. Quản lý GDHN ở trường THPT theo định hướng phát triển nhân lực

Theo một cách chung nhất, GDHN ở trường phổ thông được thực hiện thông qua 10 con đường nêu trên; do đó, QL GDHN chính là QL 10 con đường GDHN này sao cho mỗi con đường đều có những ảnh hưởng tích cực đến sự lựa chọn nghề nghiệp của HS, góp phần giáo dục toàn diện HS và gắn kết hiệu quả với định hướng phát triển NL của địa phương.

Quản lý giáo dục hướng nghiệp ở trường trung học phổ thông theo định hướng phát triển nhân lực thành phố Hồ Chí Minh - 6

Về cơ bản, QL GDHN cũng có 4 chức năng như hoạt động QL nói chung: lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo - chỉ đạo và kiểm tra - đánh giá. Thành phần kết nối 4 chức năng nêu trên chính là HĐ QL, nói cách khác, ở mỗi chức năng cũng đều xuất hiện ảnh hưởng của HĐ QL, ví dụ, trong công tác xây dựng kế hoạch GDHN thì CBQLGD phải có kế hoạch xây dựng kế hoạch GDHN, phải tổ chức, phân công cho Ban GDHN của NT thực hiện việc xây dựng kế hoạch, bên cạnh đó, phải đôn đốc, chỉnh sửa để kế hoạch khả thi và đạt hiệu quả cao, cuối cùng, CBQLGD phải kiểm tra, đánh giá công tác xây dựng kế hoạch GDHN của NT, chuẩn bị cho một chu kỳ hoạt động mới hiệu quả hơn.

Bên cạnh hướng tiếp cận theo chức năng QL nêu trên, nhằm làm rõ hơn cơ sở lý luận của QL GDHN trong NTPT theo định hướng phát triển NL, luận án xác định hướng tiếp cận theo các thành tố cấu thành QL GDHN trong NTPT bao gồm QL mục tiêu, nội dung, phương pháp, phương tiện và QL GV cũng như HS trong GDHN.

1.5.1. Mục tiêu chung của quản lý giáo dục hướng nghiệp trong nhà trường

Đối với công tác QL nhà trường, QL GDHN có các mục tiêu QL cụ thể được mô tả trong sơ đồ sau:

Mục tiêu quản lý GDHN

ở trường THPT

QL việc thực hiện nội dung chương

trình GDHN

QL việc phát triển

đội ngũ GDHN

QL việc khai thác và

phối hợp hợp lý các nguồn lực cho GDHN

Quản lý tính

hiệu quả của GDHN

Sơ đồ 1.3. Mục tiêu quản lý giáo dục hướng nghiệp ở trường THPT

Theo đó, QL hiệu quả GDHN sẽ giúp NTPT:

- Xây dựng được bộ máy GDHN hợp lý, bồi dưỡng, phát triển đội ngũ cán bộ, GV có đủ năng lực thực hiện các nhiệm vụ GDHN của nhà trường.

- Dựa trên khung chương trình chung, xây dựng được nội dung chương trình GDHN phù hợp với đặc điểm nhu cầu nhân lực của từng địa phương.

- Tạo được một bầu không khí “hướng nghiệp”, kết nối CBQLGD với các tác nhân hướng nghiệp và HS.

- Huy động và phát huy được mọi nguồn lực trong và ngoài NT phục vụ cho GDHN, tạo nên sức mạnh tổng hợp để đạt mục tiêu GDHN.

- Hỗ trợ và tạo động lực cho các tác nhân tham gia GDHN, phát huy tối đa sự sáng tạo của từng tác nhân khi GDHN cho HS. Thường xuyên thu thập được các thông tin về mức độ thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ GDHN từ các tác nhân tham gia GDHN để từ đó ra quyết định và có biện pháp điều chỉnh kịp thời để NT không chệch khỏi mục tiêu GDHN cho HS, tiến tới nâng cao tính hiệu quả của hoạt động này.

1.5.2. Nội dung QL GDHN ở trường THPT theo định hướng phát triển nhân lực

Sau khi nghiên cứu cơ sở lý luận của HĐ QLGD nói chung và cơ sở thực tiễn của GDHN trong NTPT, luận án xác định một số vấn đề có liên quan đến QL GDHN trong NTPT theo định hướng phát triển NL như sau: QL mục tiêu GDHN; QL việc đổi mới phương pháp, hình thức GDHN; QL nội dung chương trình GDHN; QL thông tin trong GDHN; QL xây dựng đội ngũ GDHN; QL tài chính, cơ sở vật chất – thiết bị GDHN; QL công tác XH hóa, phối hợp thực hiện GDHN; QL công tác kiểm tra đánh giá GDHN.


QL mục tiêu

GDHN

QL công tác kiểm tra đánh

giá GDHN

QL việc đổi mới phương pháp,

hình thức GDHN

QL công tác XH hóa, phối hợp thực hiện

GDHN

QL GDHN theo định hướng phát

triển nhân lực

QL nội dung chương trình

GDHN

QL tài chính,

cơ sở vật chất

QL thông tin

trong GDHN

– thiết bị

GDHN

QL xây dựng đội ngũ

GDHN


Sơ đồ 1.4. Nội dung quản lý giáo dục hướng nghiệp ở trường THPT theo định hướng phát triển nhân lực

Bên cạnh các nội dung QL nêu trên, tác giả cho rằng QL GDHN cần làm cho GDHN trong NTPT theo được định hướng phát triển nhân lực như đã trình bày ở phần trên. Nói cách khác, QL GDHN hiệu quả tức là QL hiệu quả mối quan hệ giữa các thành tố trong tam giác: GDHN – phát triển NL – phát triển KT-XH nhằm đáp ứng được định hướng phát triển nhân lực của địa phương và cả nước.

1.5.2.1. Quản lý mục tiêu GDHN

Theo tác giả Nguyễn Đức Trí, mục tiêu của QL GDHN trong NTPT bao gồm: một là, làm cho HĐ GDHN có nền nếp, có chất lượng và có hiệu quả thiết thực; hai là,

góp phần làm ổn định tư tưởng, thúc đẩy động cơ học tập của cá nhân HS, đáp ứng nhu cầu cân đối hợp lý và hiệu quả lực lượng lao động XH. [56].

Tuy nhiên, luận án cho rằng mục tiêu của QL GDHN trong NTPT còn phải gắn liền với định hướng phát triển NL của cả nước và địa phương, nói cách khác, QL làm sao cho việc phân luồng, định hướng nghề nghiệp cho HS đáp ứng được nhu cầu về NL của cả nước và từng địa phương trong từng thời kỳ nhất định. Mặt khác, QL GDHN còn phải góp phần làm cho GDHN hiệu quả hơn, từ đó, đạt được các mục tiêu cụ thể về GDHN như sau:

- HS có tri thức và kỹ năng nghề nghiệp cao, có khả năng thích ứng và nhanh chóng tạo được thế chủ động trong môi trường sống và làm việc.

- HS hội đủ các yếu tố cần thiết về thái độ nghề nghiệp, có năng lực ứng xử, (đạo đức, lương tâm nghề nghiệp, tác phong làm việc, kỷ luật lao động, tinh thần hợp tác, tinh thần trách nhiệm, ý thức công dân …) và tính năng động, tự lực cao.

- HS học để làm người Việt Nam trong thời kỳ hội nhập; học để có nghề, có việc làm hiệu quả.

- NL phải có cơ cấu trình độ, ngành nghề và vùng miền hợp lý.

Có thể cho rằng xác định và quản lý được mục tiêu chung của GDHN là tiền đề quan trọng nhất để QL hiệu quả GDHN ở trường THPT. Mục tiêu GDHN trong NT cần đảm bảo nguyên tắc SMARTER, cụ thể như sau:

- Cụ thể (Specific): cái đích cần đạt tới của quá trình GDHN càng rõ ràng, cụ thể càng tốt, giúp đội ngũ thực hiện dễ dàng đạt được.

- Đo lường được (Measurable): nội dung mục tiêu phải thể hiện rõ mức độ cần đạt được qua quá trình GDHN.

- Phù hợp (Appropriate): mục tiêu phải phù hợp với khả năng và điều kiện, trong bối cảnh nhất định.

- Hợp lý (Reasonable): nhằm đảm bảo cho CBQLGD và đội ngũ GDHN thực hiện được mục tiêu GDHN.

- Thời hạn (Time limit): phải nêu được thời hạn phù hợp để có thể đạt được mục tiêu GDHN, không kéo quá dài mà cũng không quá ngắn.

- Hiệu quả (Effect): mục tiêu phải chỉ ra được kết quả và hiệu quả cần đạt được của GDHN.

- Thực tế (Reality): mục tiêu phải sát với tình hình thực tế và nhu cầu thực tế.

1.5.2.2. Quản lý việc đổi mới phương pháp GDHN

CBQLGD cần QL việc đổi mới phương pháp GDHN theo hướng tăng tính chủ động, sáng tạo cho HS, người thầy vẫn đóng vai trò chủ đạo trong việc gợi mở, giúp HS tự khám phá thế giới nghề nghiệp, tự khám phá bản thân để từ đó có đầy đủ thông tin cần thiết tự HN cho mình. Đổi mới phương pháp GDHN theo hướng đặt HS vào một tình huống có vấn đề trong cuộc sống, hướng dẫn HS giải quyết tình huống bằng những kiến thức có được qua quá trình học tập, từ đó, góp phần tạo hứng thú cho HS khi tham gia vào các GDHN do NT tổ chức, việc này đòi hỏi phải đổi mới cả trong nhận thức và hành động của lực lượng tham gia làm GDHN.

Ngoài phương pháp truyền thống truyền đạt kiến thức 1 chiều từ thầy đến trò, có thể kể ra nhiều phương pháp GDHN khác ở trường THPT cần được QL, chỉ đạo tổ chức thực hiện hiệu quả, bao gồm:

- Phương pháp học tập theo dự án: đây là phương pháp tạo điều kiện cho HS rèn luyện kỹ năng làm việc nhóm, tìm hiểu, nghiên cứu và vận dụng những kiến thức học được trong việc giải quyết một vấn đề cụ thể trong cuộc sống, ví dụ như tìm hiểu về xu hướng nghề nghiệp của HS trong một lớp học hoặc tìm hiểu về các nhu cầu NL của cơ quan cha mẹ HS đang làm việc, tìm hiểu về các nghề truyền thống của địa phương…

- Phương pháp trắc nghiệm: NT cung cấp các bảng trắc nghiệm giúp HS tự hiểu được năng lực, kỹ năng, nhu cầu, sở thích nghề nghiệp của bản thân… Các trắc nghiệm này có thể được sử dụng 1 lần hoặc nhiều lần nhằm giúp HS xác định chính xác hơn đặc điểm nhân cách nghề nghiệp của mình. Sau đây là một số trắc nghiệm thường được sử dụng: trắc nghiệm xu hướng nghề, trắc nghiệm của John Holland, trắc nghiệm MBTI, trắc nghiệm IQ (trí thông minh), trắc nghiệm EQ (trí tuệ cảm xúc), trắc nghiệm tính bền vững chú ý, trắc nghiệm Raven, trắc nghiệm động cơ học tập, trắc nghiệm tư duy hình học, trắc nghiệm tư duy ngôn ngữ…

- Phương pháp sân khấu hóa: CBQLGD có thể hướng dẫn GV làm GDHN thực hiện phương pháp này nhằm thay đổi không khí học tập, tăng hứng thú cho HS khi tham gia các GDHN. Qua hình thức sân khấu hóa, HS có thể tiếp cận và giới thiệu với bạn bè các tình huống liên quan đến việc lựa chọn nghề nghiệp có thể gặp trong

đời sống hằng ngày (VD: mâu thuẫn giữa cha mẹ và con cái khi chọn nghề; giữ gìn và phát huy các nghề truyền thống; thích ứng với một số nghề mới…). Sau khi xem tiết mục sân khấu hóa, các HS còn lại có thể thảo luận để làm sáng tỏ vấn đề với sự dẫn dắt của GV.

- Phương pháp giao lưu: CBQLGD cần chỉ đạo GV huy động được lực lượng PHHS giỏi và thành đạt trong nghề vào trường giao lưu trao đổi, hướng dẫn HS đến với thế giới nghề nghiệp, kể cho HS nghe những khó khăn trong nghề và cách vượt qua khó khăn. Điều quan trọng là “truyền lửa” cho HS, giúp các em thêm tin yêu vào lao động chân chính, tin vào sự thành đạt và sự cống hiến cho XH. Bên cạnh PHHS, NT có thể mời thêm cựu HS hiện đang thành đạt trong nghề, đặc biệt là những người thành công mà chưa qua ngưỡng cửa đại học, cần tuyên truyền rộng rãi hơn nữa “Đại học không phải là con đường duy nhất đi đến thành công”. Điều cốt lõi của phương pháp này là phải có sự lựa chọn khi mời diễn giả giao lưu sao cho nghề nghiệp của họ phù hợp với các ngành nghề mà địa phương đang có nhu cầu về NL.

- Phương pháp HN bằng tâm lý: phương pháp này chủ yếu dựa vào các giải pháp tư vấn tâm lý thông qua Phòng tư vấn tâm lý – HN ở trường THPT. Cụ thể, khi HS có nhu cầu, các em có thể gặp gỡ trực tiếp với chuyên viên tư vấn tâm lý – HN để có được những lời khuyên định hướng nghề nghiệp. ngoài ra, NT có thể mời một số chuyên gia tư vấn HN về trường hỗ trợ tổ chức các HĐ tư vấn HN chuyên sâu tại trường vào những thời điểm nhất định trong năm học.

- Phương pháp tổ chức tham quan học tập: CBQLGD chỉ đạo Ban GDHN phối hợp cùng các tổ bộ môn và phòng, ban trong NT tổ chức cho HS tham quan các nhà máy, xí nghiệp, cơ sở sản xuất, các làng nghề, trường nghề, các trường Đại học, Cao Đẳng, TCCN nhằm tạo điều kiện cho HS tiếp cận với thế giới nghề nghiệp. Bên cạnh tham quan GDHN, các tổ bộ môn cũng tổ chức HĐ ngoại khóa, đưa HS đến những địa điểm có liên quan đến bài học của bộ môn. Trong trường hợp này, cần quán triệt với tổ bộ môn về “bầu không khí HN” trong NT để GVBM có thể tích hợp cả nội dung GDHN vào quá trình hướng dẫn HS tham quan, học tập bô môn của mình. Như đã nêu ở trên, những địa điểm HS tham quan học tập phải là những nơi đang thực hiện theo cơ cấu nghề nghiệp mà địa phương đang cần. Cần lưu ý cả GV và HS khi

tham gia GDHN phải nghiêm túc, cuối buổi tham quan, có thể cho HS viết bài cảm nghĩ về chuyến tham quan.

- Phương pháp hướng học để hướng nghiệp: phương pháp này chủ yếu là tạo điều kiện cho HS tìm hiểu về các ngành học, các bậc học, các trường Đại học, Cao Đẳng, TCCN, các trường dạy nghề, các cơ sở đào tạo nghề tại gia… Thông thường, các trường THPT sẽ tổ chức mời các cơ sở đào tạo trên đây đến giới thiệu chi tiết về chương trình đào tạo, hệ thống các ngành nghề đào tạo, điều kiện tham gia học tập… và thường được các trường THPT tổ chức cho HS lớp 12 tham gia vì lúc này, qua quá trình được GDHN, các em đã có nhận thức tương đối khoa học hơn về vấn đề lựa chọn nghề nghiệp tương lai và đủ khả năng tìm hiểu sâu về ngành nghề mình yêu thích. Hiện nay, với sự tham gia của truyền thông vào GDHN, các tòa soạn báo có uy tín cũng tổ chức “Ngày hội tư vấn HN” với sự tham gia của HS nhiều trường THPT ở địa phương.

1.5.2.3. Quản lý nội dung chương trình GDHN

Để QL hiệu quả GDHN ở trường THPT, CBQLGD cần QL tốt việc thực hiện chương trình bộ môn GDHN do Bộ GD&ĐT quy định, có cơ chế giám sát GV thực hiện nghiêm túc bộ môn này tại đơn vị của mình. Ngoài ra, cần tổ chức biên soạn lại chương trình GDHN của địa phương, theo đó, khuyến khích GV chủ động bổ sung vào chương trình GDHN của NT những nội dung tìm hiểu về thế giới nghề nghiệp sao cho phù hợp với tình hình nhu cầu NL của địa phương và cả nước trong từng giai đoạn cụ thể, bên cạnh đó, có thể giảm tải bớt một số ngành nghề không còn phù hợp. Trong quá trình QL chương trình GDHN, cần bám sát Quy hoạch phát triển NL và kế hoạch phát triển KT-XH cũng như sự chuyển dịch cơ cấu KT của địa phương và cả nước, đây là điểm mấu chốt giúp đạt được mục tiêu GDHN theo định hướng phát triển NL của địa phương.

Ngoài ra, CBQLGD phải chỉ đạo thực hiện GDHN với quan điểm lấy người học làm trung tâm (student-centered). Nói cách khác, chương trình GDHN ở trường THPT phải chuyển trọng tâm từ nội dung HN GV muốn dạy sang nội dung HS cần học và vai trò GV thay đổi từ chỗ là nguồn chủ yếu truyền thụ kiến thức sang giúp điều phối quá trình học tập của HS [19]. Mặt khác, CBQLGD cần lưu ý đưa vào chương trình GDHN những nội dung GDHN theo hướng tiếp cận năng lực bằng

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 01/07/2023