cũng như tạo lập được cuộc sống tốt đẹp cho bản thân. Trên bình diện vĩ mô XH, HN nhằm góp phần phân bố hợp lý và sử dụng có hiệu quả nhất NNL, vốn quý của đất nước để phục vụ cho sự phát triển KT-XH của đất nước.
Nói tóm lại, GDHN là hệ thống các giải pháp của GĐ, NT và XH, trong đó NT đóng vai trò chủ đạo nhằm hướng dẫn và chuẩn bị cho thế hệ trẻ sẵn sàng đi vào lao động ở các ngành nghề tại những nơi XH đang cần phát triển, đồng thời lại phù hợp với hứng thú, năng lực cá nhân. Như vậy, thực chất của GDHN trong NTPT không phải là sự quyết định nghề cho mỗi HS mà là sự tuyên truyền, giáo dục, điều chỉnh động cơ, hứng thú nghề nghiệp của HS nhằm giải quyết mối quan hệ giữa cá nhân và XH, giữa cá nhân và thế giới nghề nghiệp, giáo dục sự lựa chọn nghề một cách có ý thức nhằm đảm bảo cho mỗi cá nhân tìm thấy động lực, hạnh phúc trong lao động nghề nghiệp và có cơ hội đạt năng suất cao, cống hiến nhiều nhất cho sự phát triển của XH.
1.2.2. Quản lý giáo dục hướng nghiệp
Có nhiều khái niệm về công tác quản lý nói chung, luận án xin giới thiệu một trong những khái niệm thường được dùng như sau: “QL là HĐ có ý thức của con người nhằm phối hợp hành động của một nhóm người hay một cộng đồng người để đạt được các mục tiêu đề ra một cách hiệu quả nhất” [61]. Nói cách khác, có thể xem QL là sự tác động liên tục, có tổ chức, có định hướng của chủ thể QL (người QL) tới khách thể QL trong một tổ chức bằng một hệ thống các luật lệ, chính sách, nguyên tắc, các phương pháp và giải pháp cụ thể… nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt mục tiêu chung của tổ chức. HĐ QL có bốn chức năng cơ bản, bao gồm: Kế hoạch hóa – tổ chức – lãnh đạo – kiểm tra [66].
Từ định nghĩa trên, có thể cho rằng QL GDHN trong NT chính là một bộ phận không thể thiếu của nhiệm vụ QLGD mà mọi CBQLGD đều thực hiện. Do đó, có thể xem QL GDHN trong NTPT là hệ thống những tác động có định hướng, có chủ đích, có kế hoạch và hợp quy luật của CBQLGD đến GDHN nhằm thực hiện có chất lượng và hiệu quả mục tiêu GDHN cho HS”. Nói cách khác, QL GDHN chính là những biện pháp tại chỗ và những giải pháp lâu dài trong công tác QLGD mà CBQLGD phải thực hiện nhằm đẩy mạnh hiệu quả của GDHN trong NT, giúp NT đạt được mục tiêu HN cho HS một cách khoa học, giúp các em có được đầy đủ
thông tin về bản thân và thế giới nghề nghiệp để chọn cho mình một hướng đi phù hợp nhất khi ra trường.
Quản lý tốt GDHN sẽ góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện HS đồng đều ở các mặt đức, trí, thể, mỹ; giúp HS có thái độ yêu lao động và biết chọn nghề một cách khoa học hơn. Nói cách khác, những tác động của QL GDHN giúp NT thực hiện tốt hơn việc phân luồng, hướng nghiệp cho HS, góp phần cung cấp và nâng cao chất lượng NNL cho TTLĐ.
1.2.3. Nhân lực và phát triển nhân lực
Về khái niệm “nhân lực”, theo Phạm Thành Nghị và Vũ Hoàng Ngân thì “NL chính là tổng thể những tiềm năng của con người – mà trước hết và cơ bản nhất là tiềm năng lao động – của một quốc gia hoặc vùng lãnh thổ trong một thời kỳ nhất định (5 năm, 10 năm…) phù hợp với kế hoạch và chất lượng phát triển [97, tr.24]. Trong các tài liệu hiện nay, khái niệm NL được sử dụng để chỉ những người đang và sẽ bổ sung vào lực lượng lao động, bao gồm lực lượng HS sinh viên đang được nuôi dưỡng, học tập ở các cơ sở giáo dục. Nói tóm lại, NL là tổng thể những tiềm năng về thể lực, trí lực và nhân cách của người lao động theo định hướng phát triển KT-XH cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu lao động của một quốc gia, một địa phương, vùng, miền trong những thời kỳ nhất định.
Xã hội phát triển và thay đổi từng giờ, từng phút cho nên yêu cầu đối với chất lượng NL cũng thay đổi theo, đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hóa và HNQT sâu, rộng như hiện nay, vấn đề “cạnh tranh” trong sân chơi toàn cầu đang đặt ra thách thức đối với mọi lĩnh vực trong đời sống xã hội, kể cả vấn đề phát triển nhân lực. Bên cạnh đó, sự xuất hiện của nền KT tri thức yêu cầu NL không chỉ dừng lại ở khả năng đáp ứng đầy đủ về bằng cấp, trình độ, kỹ năng mà còn phải có khả năng học tập suốt đời, kịp thời nắm bắt những đổi thay và yêu cầu luôn đổi mới nhanh chóng của thế giới nghề nghiệp, từ đó, kịp thời thích ứng với nghề mới, ngành mới, cũng là để có đủ sức “cạnh tranh” trong thị trường lao động.
Có thể bạn quan tâm!
- Quản lý giáo dục hướng nghiệp ở trường trung học phổ thông theo định hướng phát triển nhân lực thành phố Hồ Chí Minh - 2
- Phương Pháp Luận Và Phương Pháp Nghiên Cứu
- Một Số Nhận Xét Rút Ra Từ Tổng Quan Nghiên Cứu Vấn Đề
- Quản Lý Gdhn Ở Trường Thpt Theo Định Hướng Phát Triển Nhân Lực
- Xây Dựng Năng Lực Tự Chủ Chuyên Môn Về Gdhn Cho Gv
- Các Yếu Tố Ảnh Hưởng Đến Ql Gdhn Theo Định Hướng Phát Triển Nhân Lực
Xem toàn bộ 84 trang tài liệu này.
Xã hội phát triển dẫn đến nhu cầu phải phát triển NL. Có thể xem phát triển NL là quá trình tạo ra sự biến đổi, chuyển biến về số lượng, cơ cấu và chất lượng phù hợp với từng giai đoạn phát triển KT-XH ở các cấp độ khác nhau (quốc gia, vùng miền, địa phương…) bám sát định hướng phát triển NL cần thiết cho các lĩnh
vực HĐ lao động và đời sống XH, nhờ vậy mà phát triển được năng lực, tạo được công ăn việc làm, nâng cao mức sống và chất lượng cuộc sống, đóng góp chung cho sự phát triển của XH.
Nói cách khác, phát triển NL là một quá trình chủ động tạo ra sự thay đổi của NL đáp ứng đòi hỏi về NL cho sự phát triển KT-XH trong từng giai đoạn phát triển của một quốc gia, vùng miền, địa phương. Đây là quá trình lâu dài bao gồm hình thức, phương pháp, chính sách và giải pháp cụ thể cho từng giai đoạn cụ thể. Phát triển NL còn là cách làm tăng giá trị sử dụng con người trong quá trình phát triển con người, đáp ứng yêu cầu phát triển KT-XH.
Trong quá trình phát triển NL, cần lưu ý một số chỉ số đánh giá như sau:
- Số lượng NL: Nói đến NL của bất kỳ một tổ chức, một địa phương hay một quốc gia thì cần trả lời câu hỏi “Có bao nhiêu người và sẽ có thêm bao nhiêu người nữa trong tương lai?”. Sự phát triển về số lượng NL dựa trên hai nhóm yếu tố: những yếu tố bên trong (ví dụ: nhu cầu thực tế công việc đòi hỏi phải tăng số lượng lao động) và những yếu tố bên ngoài như sự gia tăng cơ học về dân số hay lực lượng lao động do di dân, xuất khẩu lao động…;
- Chất lượng NL: Chất lượng NL thể hiện ở trí tuệ, trình độ, sự hiểu biết, đạo đức, kỹ năng, sức khoẻ, thẩm mỹ.v.v... của người lao động. Trong các yếu tố trên thì trí lực và thể lực là hai yếu tố quan trọng trong việc xem xét đánh giá chất lượng NL;
- Cơ cấu NL: Cơ cấu NL là yếu tố không thể thiếu khi xem xét đánh giá về NL. Cơ cấu NL thể hiện trên các phương diện khác nhau như: cơ cấu trình độ đào tạo, giới tính, độ tuổi.v.v... Cơ cấu NL của một quốc gia nói chung được quyết định bởi cơ cấu đào tạo và cơ cấu KT theo đó sẽ có một tỉ lệ nhất định NL. Ví dụ, cơ cấu NL lao động trong khu vực KT tư nhân của các nước trên thế giới phổ biến là 5 - 3 - 1 cụ thể là 5 công nhân kỹ thuật, 3 trung cấp nghề và 1 kỹ sư; tuy nhiên, đối với nước ta, tình trạng thừa thầy thiếu thợ đã tồn tại từ nhiều năm qua, tức là số người có trình độ đại học, trên đại học nhiều hơn số công nhân kỹ thuật.
Muốn phát triển NL hiệu quả thì có thể cho rằng GD&ĐT chính là giải pháp đầu tiên và có tác động lâu dài nhất. Thật vậy, GD&ĐT chuẩn bị các phẩm chất, năng lực cần thiết cho người lao động như: thể chất, đạo đức, học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ, thái độ lao động, ý thức trách nhiệm… Nói cách khác, GD&ĐT cung
cấp kiến thức cơ bản, là cái gốc, là cơ sở để người lao động tiếp tục lĩnh hội và vận dụng những kiến thức khoa học kỹ thuật hiện đại trong lao động sản xuất, từ đó, có các kỹ năng làm việc nâng cao khi tham gia sâu vào TTLĐ, đặc biệt trong thời đại của toàn cầu hóa và kinh tế tri thức.
Bên cạnh đó, công tác dự báo được nhu cầu nhân lực của địa phương và quốc gia cũng có ý nghĩa khá quan trọng nhằm định hướng nghề nghiệp một cách hiệu quả cho HS vì nếu có được dự báo nhu cầu NL dài hạn, trung hạn, ngắn hạn chính xác, khoa học; đặc biệt, nếu xác định được nhu cầu NL dành cho nhiệm vụ phát triển KT-XH với đầy đủ các yêu cầu về chất lượng, cơ cấu ngành nghề, cơ cấu trình độ càng chính xác và càng chi tiết hóa thì người lao động và những người sắp bước vào thị trường lao động (trong khuôn khổ luận án này là học sinh THPT) sẽ có cơ sở lựa chọn ngành, nghề đào tạo hoặc đi trực tiếp vào thị trường lao động một cách khoa học hơn, phù hợp hơn với năng lực, xu hướng nghề nghiệp của bản thân.
1.2.4. Phân luồng
Khoản 2 Điều 3 Nghị định số 75/2006/NĐ-CP ngày 02/8/2006 của Chính phủ về việc quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật giáo dục, được sửa đổi, bổ sung bằng Nghị định 31/2011/NĐ-CP ngày 11/5/2011 và Nghị định 07/2013/NĐ-CP ngày 9/1/2013 quy định: “phân luồng trong giáo dục là biện pháp tổ chức hoạt động giáo dục trên cơ sở thực hiện hướng nghiệp trong giáo dục, tạo điều kiện để học sinh tốt nghiệp THCS, THPT tiếp tục học ở cấp học hoặc trình độ cao hơn, học trung cấp, học nghề hoặc lao động phù hợp với năng lực, điều kiện cụ thể của cá nhân và nhu cầu xã hội; góp phần điều tiết cơ cấu ngành nghề của lực lượng lao động phối hợp với nhu cầu phát triển của đất nước”.
Cụ thể hơn, phân luồng trong giáo dục là tạo ra các con đường và định hướng một cách khoa học cho HS sau khi tốt nghiệp có thể lựa chọn con đường phù hợp để tiếp tục học cao hoặc rẽ vào các trường dạy nghề hoặc trực tiếp tham gia vào thị trường lao động miễn là các hướng đi đó phù hợp với năng lực, nguyện vọng và sở trường của mỗi HS. Ở tầm vĩ mô, phân luồng nhằm điều chỉnh sự phân bố nguồn lực của quốc gia và địa phương cho phù hợp với yêu cầu phát triển KT-XH trong từng giai đoạn nhất định để sử dụng một cách hiệu quả nhất nguồn nhân lực, nói cách khác, phân luồng tốt giúp tránh lãng phí trong công tác đào tạo và phát triển NL.
Theo đó, phân luồng, GDHN trong khu vực trường học và nhiệm vụ phát triển NL có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động qua lại, bổ trợ cho nhau. Nếu QL tốt GDHN thì công tác phân luồng sẽ có nhiều thuận lợi, góp phần giữ được sự ổn định trong cơ cấu lao động của mỗi quốc gia và địa phương, nhờ đó, chất lượng NL sẽ ngày càng được nâng cao, đáp ứng được nhu cầu phát triển KT-XH của quốc gia và địa phương trong từng thời điểm nhất định.
1.3. Mối quan hệ giữa GDHN, phát triển nhân lực và phát triển kinh tế - xã hội
Có thể dễ dàng nhận thấy mối quan hệ tương hỗ, thúc đẩy nhau cùng phát triển giữa GDHN, phát triển NL và phát triển KT-XH. Theo kinh nghiệm của thế giới, thành quả phát triển của một quốc gia, một địa phương không chỉ nhờ có nguồn vốn tài chính lớn mà còn nhờ đến NL chất lượng cao, có đầy đủ kỹ năng, bí quyết nghề nghiệp và đặc biệt là, quốc gia đó phải QL hiệu quả NL này. Do đó, muốn phát triển KT-XH, cần phải phát triển NL một cách hiệu quả dựa trên nhu cầu thực tế của XH, của TTLĐ về NL trong từng thời kỳ nhất định, được cụ thể hóa trong chiến lược phát triển KT-XH từng giai đoạn. Hiện nay, Việt Nam chúng ta đã xây dựng chiến lược phát triển KT-XH giai đoạn 2010-2020 [29] cũng như quy hoạch phát triển NL giai đoạn 2011-2020 [24]. Với ý nghĩa xây dựng và sử dụng toàn diện nguồn lực con người vì sự phát triển của KT-XH, có thể nói, phát triển NL là động lực thúc đẩy sự phát triển KT và tác động đến toàn bộ đời sống XH, đất nước có phồn vinh, phát triển hay không chính là nhờ ở chất lượng nguồn lực con người.
Về phần mình, một khi KT-XH phát triển sẽ tạo ra những cơ hội và điều kiện cần thiết cho NL ngày càng phát triển. Thật vậy, sự phát triển của nền KT sẽ đảm bảo cho nền giáo dục được phát triển thông qua các chính sách hỗ trợ giáo dục. Ngày nay, có thể nói mọi quốc gia đều xem giáo dục là quốc sách hàng đầu, đầu tư cho giáo dục chính là đầu tư cho tương lai. Vấn đề phát triển NL bao gồm đồng bộ 3 mặt chủ yếu: GD&ĐT con người, tạo môi trường việc làm và đãi ngộ thỏa đáng cho con người, trong đó, GD&ĐT được coi là cơ sở để sử dụng con người có hiệu quả và để mở rộng, cải thiện môi trường làm việc. Tóm lại, sự phát triển KT-XH một mặt được thụ hưởng thành quả từ công tác phát triển NL, bắt nguồn từ GD&ĐT, mặt khác lại đưa ra những yêu cầu mới về chất lượng NL cũng như tạo điều kiện cho GD&ĐT không ngừng phát triển.
Đối với các quốc gia đang phát triển như Việt Nam, bên cạnh các yếu tố về trình độ, cơ cấu, chất lượng NL, cần phải đặc biệt quan tâm nâng cao tỉ lệ lao động qua đào tạo, có như vậy, chất lượng NL mới được đảm bảo, có như vậy, lực lượng lao động mới đạt được năng suất lao động cao nhất có thể và có đủ sức cạnh tranh trên TTLĐ quốc tế và khu vực khi Việt Nam đang HNQT mạnh mẽ.
Giáo dục hướng nghiệp chính là một trong những công cụ hiệu quả trong các HĐGD nhằm góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện thế hệ trẻ, giúp các em có thái độ tích cực đối với lao động, có những kỹ năng cơ bản về lao động, có những phẩm chất cơ bản của người lao động trong tương lai để có thể dễ dàng tham gia, hòa nhập, thăng tiến và thành đạt trong thế giới nghề nghiệp khi các em ra trường. Bên cạnh đó, GDHN không chỉ tác động vào nhận thức của HS đối với nghề định chọn mà còn làm cho các em hiểu được giá trị của nghề, hình thành hứng thú nghề và tâm nguyện cống hiến sức mình cho nghề đã chọn. Một khi làm tốt GDHN, thế hệ trẻ sẽ được phân luồng hiệu quả theo đúng định hướng và nhu cầu của TTLĐ, nói cách khác, GDHN góp phần thúc đẩy việc sử dụng hợp lý tiềm năng lao động trẻ tuổi của đất nước, nâng cao năng suất lao động của XH, góp phần thực hiện thành công các mục tiêu của chiến lược phát triển NL của đất nước, tránh để thừa NL ở các ngành nghề mà đất nước và địa phương chưa coi là mũi nhọn tại một giai đoạn nhất định hoặc lại thiếu NL chất lượng cao ở những ngành nghề mà nền KT đang có mức cầu cao. Khi đã có NL chất lượng cao, KT-XH sẽ có nhiều cơ hội phát triển bền vững hơn vì suy cho cùng, nhân tố con người là quan trọng nhất, có người giỏi và QL người giỏi thật tốt thì cơ hội thành công cao hơn và ngược lại. Về phần mình, nền KT phát triển đòi hỏi GDHN phải ngày càng được chuyên môn hóa, chuyên nghiệp hóa cũng như cập nhật thường xuyên thông tin và nhu cầu của TTLĐ cho NL, cả ở dạng tiềm năng (chính là lực lượng học sinh, sinh viên) và người đang tham gia lao động, từ đó định hướng cho NL phát triển theo đúng chiến lược phát triển NL và chiến lược phát triển KT-XH của đất nước và từng địa phương.
Ngoài ra, cần khẳng định rằng “hiệu quả QL GDHN” sẽ có tác động trực tiếp và liên tục đến “hiệu quả của GDHN” ở trường phổ thông. Nói cách khác, nếu vận dụng tốt các chức năng quản lý, phương pháp quản lý để quản lý GDHN (sao cho đạt được mục tiêu GDHN, xây dựng được đội ngũ GDHN, đổi mới chương trình
GDHN phù hợp, kiểm tra đánh giá được GDHN ở trường THPT, làm cơ sở cải tiến thường xuyên chất lượng GDHN) thì “hiệu quả của GDHN” ở trường phổ thông sẽ ngày càng được nâng cao. Do đó, có thể hiểu rằng mối quan hệ giữa GDHN, phát triển NL và phát triển KT-XH ít nhiều đều chịu sự tác động của hiệu quả QL GDHN ở trường phổ thông.
1.4. Giáo dục hướng nghiệp trong trường phổ thông
1.4.1. Mục đích của giáo dục hướng nghiệp
Giáo dục hướng nghiệp có mục đích chung là hình thành khả năng tự chủ trong việc lựa chọn nghề của HS trên cơ sở của sự phù hợp giữa năng lực, hứng thú, sở thích cá nhân với nhu cầu sử dụng lao động trong các lĩnh vực của xã hội. Điều này góp phần nâng cao hiệu quả lao động xã hội và làm tốt công tác phân luồng HS sau mỗi bậc học.
Riêng đối với bậc THPT, GDHN nhằm mục đích giúp cho HS có được ý thức như là chủ thể trong sự lựa chọn nghề nghiệp, có định hướng khi chọn nghề dựa trên cơ sở hiểu biết khoa học về nghề nghiệp, về nhu cầu thị trường lao động cũng như năng lực, sở trường, sức khỏe của bản thân.
Cụ thể, mục tiêu đối với HS THPT (lớp 10, 11, 12) sau khi tham gia các hoạt động GDHN là [94]:
- Về kiến thức: hiểu được ý nghĩa, tầm quan trọng của việc lựa chọn nghề nghiệp tương lai; biết cách tìm hiểu bản thân, tìm hiểu nghề nghiệp, thông tin thị trường lao động và xây dựng kế hoạch nghề nghiệp cho bản thân; biết được một số thông tin cơ bản về định hướng phát triển KT-XH của địa phương, đất nước và khu vực.
- Về kỹ năng: tự đánh giá được sở thích, khả năng, cá tính và giá trị nghề nghiệp của bản thân và điều kiện gia đình trong việc định hướng nghề nghiệp; tìm kiếm được thông tin nghề, thông tin thị trường tuyển dụng lao động và các cơ sở đào tạo cần thiết; lựa chọn và xây dựng kế hoạch nghề nghiệp cho bản thân.
- Về thái độ: chủ động, tích cực tham gia các hoạt động trong và ngoài nhà trường để tăng thêm nhận thức về bản thân, nhận thức nghề nghiệp; tự tin thực hiện kế hoạch nghề nghiệp của bản thân sau khi tốt nghiệp THPT.
1.4.2. Nhiệm vụ của giáo dục hướng nghiệp
Theo sách “Giáo dục hướng nghiệp ở Việt Nam” của tác giả Đặng Danh Ánh [38, tr.135] thì giáo dục hướng nghiệp ở trường phổ thông có 5 nhiệm vụ sau đây: 1/ Tổ chức cho HS làm quen với các ngành nghề của nền kinh tế, đặc biệt với các nghề phổ biến; 2/ Tổ chức các hoạt động giáo dục nghề cho HS nhằm giúp các em có ý thức chọn nghề; 3/ Tiến hành tư vấn chọn nghề cho HS; 4/ Giúp HS tìm hiểu nhân cách của mình để giúp các em chọn nghề phù hợp; 5/ Giáo dục HS có thái độ lao động đúng với mọi ngành nghề.
1.4.3. Ý nghĩa của giáo dục hướng nghiệp
Theo sách “Một số vấn đề về HN cho HS phổ thông” của nhóm tác giả Nguyễn Văn Lê, Hà Thế Truyền, Bùi Văn Quân thì GDHN có 4 ý nghĩa sau [78, tr.40-42]:
- Ý nghĩa giáo dục: nhờ GDHN, nhà trường góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện HS, trong đó có nội dung giáo dục cho HS có hứng thú và động cơ nghề nghiệp đúng đắn, có lý tưởng nghề nghiệp trong sáng, có thái độ đúng đắn đối với lao động. Do đó, HN chính là một bộ phận cấu thành giáo dục. Chính sự làm quen và tiếp xúc với nghề, quá trình tiếp cận kỹ thuật và công nghệ sản xuất, sự “thử sức” với lao động nghề nghiệp… do GDHN mang đến còn giúp HS rèn luyện sự sáng tạo, khéo tay, tư duy kỹ thuật, tư duy kinh tế.
- Ý nghĩa kinh tế: GDHN giúp đẩy mạnh phân luồng HS, phân luồng nhân lực của XH, giúp đất nước sử dụng hợp lý tiềm năng lao động trẻ tuổi. Đây chính là ý nghĩa rất quan trọng đối với sự phát triển kinh tế, nâng cao năng suất lao động trong XH. Mỗi năm, có không ít HS sau THPT không thể học lên bậc cao hơn và tham gia trực tiếp vào thị trường lao động, nếu lực lượng này được tổ chức, hướng dẫn đi vào thị trường lao động một cách khoa học và đáp ứng được yêu cầu của phân công lao động XH thì chắc chắn sẽ góp phần nâng cao năng suất lao động XH, chất lượng nguồn nhân lực cũng được nâng cao.
- Ý nghĩa chính trị: GDHN có vai trò quan trọng khi thực hiện chiến lược giáo dục, chiến lược con người và sự nghiệp xây dựng, bảo vệ tổ quốc XH chủ nghĩa. Nếu công tác này được thực hiện nghiêm túc, hiệu quả sẽ góp phần tích cực vào việc phân luồng HS tốt nghiệp các cấp, phân hóa HS có năng lực, phát hiện HS có năng