Các Yếu Tố Ảnh Hưởng Đến Ql Gdhn Theo Định Hướng Phát Triển Nhân Lực

1.6. Các yếu tố ảnh hưởng đến QL GDHN theo định hướng phát triển nhân lực

Trong quá trình QL GDHN ở trường THPT theo định hướng phát triển NL, CBQLGD cần lưu ý một số yếu tố ảnh hưởng đến GDHN và QL GDHN như sau:

Một trong những yếu tố đầu tiên ảnh hưởng đến QL GDHN ở trường THPT chính là chiến lược phát triển GD&ĐT của quốc gia, yếu tố này ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình đổi mới công tác QLGD nói chung và QL GDHN nói riêng. Đặc biệt là đối với Việt Nam, nhiệm vụ đổi mới căn bản, toàn diện GD&ĐT theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, XH hóa, dân chủ hóa và HNQT nằm trong chiến lược phát triển GD&ĐT chính là nhiệm vụ then chốt, giải pháp chủ yếu để phát triển nhân lực Việt Nam trong giai đoạn từ nay đến 2020 và những năm tiếp theo. Do đó, khi QL GDHN, CBQLGD cần nắm vững một số nội dung chính của chiến lược phát triển GD&ĐT quốc gia như [25]:

- Hoàn thiện hệ thống giáo dục theo hướng mở, hội nhập, thúc đẩy phân tầng, phân luồng, khuyến khích học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập.

- Đổi mới chương trình, sách giáo khoa phổ thông, khung chương trình đào tạo ở bậc đại học và giáo dục nghề nghiệp theo hướng phát huy tư duy sáng tạo, năng lực tự học, tự nghiên cứu, tăng thời gian thực hành, tập trung vào những nội dung, kỹ năng người học, doanh nghiệp và xã hội cần, đảm bảo liên thông giữa các bậc học, cấp học, giữa giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học.

- Mục tiêu cụ thể của giáo dục phổ thông là: “Chất lượng giáo dục toàn diện được nâng cao, đặc biệt chất lượng giáo dục văn hóa, đạo đức, kỹ năng sống, pháp luật, ngoại ngữ, tin học.”

- Cũng cần lưu ý đến mục tiêu cụ thể của giáo dục nghề nghiệp vì đây cũng là một bộ phận góp phần cùng giáo dục phổ thông thực hiện GDHN cho HS: “…đào tạo ra những con người có năng lực sáng tạo, tư duy độc lập, trách nhiệm công dân, đạo đức và kỹ năng nghề nghiệp, năng lực ngoại ngữ, kỷ luật lao động, tác phong công nghiệp, năng lực tự tạo việc làm và khả năng thích ứng với những biến động của thị trường lao động và một bộ phận có khả năng cạnh tranh trong khu vực và thế giới”.

- Chiến lược phát triển GD&ĐT cũng nhấn mạnh nhiệm vụ đổi mới quản lý giáo dục với nhiều nội dung chi tiết, tuy nhiên, luận án nhận thấy 2 nội dung có liên quan đến QL GDHN ở trường THPT là: một là, “tập trung vào quản lý chất lượng giáo

dục: chuẩn hóa đầu ra và các điều kiện đảm bảo chất lượng … xây dựng hệ thống kiểm định độc lập về chất lượng giáo dục, thực hiện kiểm định chất lượng cơ sở giáo dục…”; hai là, “đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, truyền thông nhằm nâng cao hiệu quả quản lý giáo dục ở các cấp.”

Yếu tố tiếp theo chính là sự ảnh hưởng của nội dung chương trình giáo dục phổ thông đến GDHN ở trường THPT. Do đó, trong điều kiện cho phép, CBQLGD cần có giải pháp đổi mới, bổ sung các nội dung GDHN cần thiết và có liên quan đến địa phương để GDHN có nét đặc thù của địa phương hơn, góp phần phân luồng và đáp ứng nhu cầu nhân lực của địa phương một cách hiệu quả hơn. Mặt khác, từ ngày 22/4/2015, đề án đổi mới chương trình, sách giáo khoa đã được Thủ tướng chính phủ phê duyệt và sẽ bắt đầu áp dụng sách giáo khoa mới vào năm học 2018-2019 theo hướng lấy học sinh làm trung tâm, phát huy tính chủ động, sáng tạo, tự học của học sinh; tăng cường tính tương tác trong dạy và học giữa thầy với trò, trò với trò và giữa các thầy giáo, cô giáo. Chương trình cũng tiếp nối, liên thông giữa các cấp học, môn học và hoạt động trải nghiệm sáng tạo; đồng thời đảm bảo giảm tải, thiết thực, kế thừa ưu điểm của chương trình hiện hành và tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa của các nước giáo dục phát triển, đảm bảo HNQT. Sách giáo khoa mới chắc chắn sẽ có ảnh hưởng nhất định đến GDHN và QL GDHN trong trường phổ thông.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 84 trang tài liệu này.

Bên cạnh đó, tính liên thông của hệ thống giáo dục quốc gia (liên thông dọc, liên thông ngang, công nhận bằng cấp lẫn nhau) tạo điều kiện tốt nhất cho công tác phân luồng sau THPT được thông suốt để cơ hội học tập và làm việc của HS được rộng mở hơn cũng chính là một yếu tố mà CBQLGD cần nắm rõ. Thực tế, việc liên thông dọc, liên thông ngang, công nhận bằng cấp của nhau giữa các cơ sở đào tạo của hệ thống giáo dục nghề nghiệp và giáo dục phổ thông chưa mạnh mẽ, gây khó khăn cho công tác phân luồng HS vào các cơ sở giáo dục nghề nghiệp, gián tiếp làm cho GDHN trong các trường THPT bị hạn chế.

Ngoài ra, một yếu tố khác có tác động sâu sắc đến QL GDHN ở trường THPT, đó là chiến lược phát triển NL và quy hoạch phát triển NL của cả nước và địa phương. Đây chính là các văn bản mang tính định hướng phát triển cho cả nước và từng địa phương về vấn đề nhân lực, nói cách khác, để chọn được một nghề, HS phải trả lời được 3 câu hỏi cơ bản: Tôi thích nghề gì? Tôi có khả năng làm nghề

Quản lý giáo dục hướng nghiệp ở trường trung học phổ thông theo định hướng phát triển nhân lực thành phố Hồ Chí Minh - 8

gì? Xã hội có cần nghề đó hay không? Câu hỏi thứ ba chính là yếu tố ảnh hưởng đến QL GDHN trong trường THPT: nếu GDHN chỉ mới dừng lại ở việc giúp HS tìm hiểu các ngành nghề mà địa phương chưa cần trong hiện tại và tương lai, tức là GDHN của trường THPT chưa gắn kết với định hướng cơ cấu ngành nghề được trình bày trong chiến lược phát triển NL của địa phương, thì chất lượng của GDHN chưa được đảm bảo do nội dung chưa phù hợp, hay nói cách khác, QL GDHN chưa đạt được hiệu quả mong muốn. Tóm lại, NT không nên định hướng cho HS những ngành nghề mà địa phương không cần mà ngược lại, cần bám sát chiến lược và quy hoạch NL của địa phương và đất nước trong từng thời kỳ nhất định.

Bên cạnh chiến lược và quy hoạch nhân lực của địa phương, còn một lĩnh vực khác ảnh hưởng khá lớn đến hiệu quả của GDHN nói riêng và QL GDHN nói chung, đó là các dự báo nhu cầu nhân lực của địa phương và cả nước. Vấn đề quan trọng cần lưu ý, đó là tính cập nhật và tính giá trị của các thông tin dự báo, các số liệu dự báo ngành nghề chính là những thông số giúp HS chọn lựa hướng đi thích hợp hơn. Tuy nhiên, các số liệu này phải có giá trị sử dụng ít nhất trong vòng 10 năm. Ngược lại, nếu dự báo có giá trị sử dụng quá ngắn (dưới 5 năm) thì sau khi được đào tạo xong ở ngành nghề A thì xã hội đã chuyển qua có nhu cầu đối với ngành nghề B, khi đó, HS sẽ khó tìm được việc làm hoặc nếu có tìm được việc làm thì cũng khó thăng tiến trong nghề.

Ngoài ra, danh mục các ngành nghề mới xuất hiện và những ngành nghề đang mất đi cũng cần được cập nhật thường xuyên và phổ biến rộng rãi trong cộng đồng, đặc biệt là khu vực trường học. Những yêu cầu mới về kỹ năng nghề nghiệp của thị trường lao động cũng ảnh hưởng không nhỏ đến việc lựa chọn nghề nghiệp của HS, từ đó, GDHN cũng như QL GDHN cũng bị ảnh hưởng, đòi hỏi phải được đổi mới liên tục và thường xuyên, giúp HS hiểu được những yêu cầu mới của thị trường lao động, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam đang đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa

– hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế sâu rộng như hiện nay.

Một yếu tố khác ảnh hưởng đến GDHN và QL GDHN ở trường THPT chính là đặc điểm tâm sinh lý của HS THPT. HS THPT ở lứa tuổi đầu thanh niên (16-18 tuổi) đang dần ổn định và trưởng thành về tâm sinh lý, nói cách khác, đây là thời kỳ

năng lực trí tuệ, nhân sinh quan, thế giới quan, lý tưởng và toàn bộ nhân cách của trẻ đang biến đổi và phát triển về chất. HS THPT là những HS đang theo học lớp 10, 11,12 trong hệ thống các cơ sở giáo dục. Các nhà tâm lý học lứa tuổi còn gọi độ tuổi này là tuổi thanh niên mới lớn và được xem là thời kỳ đặc biệt quan trọng của cuộc đời vì lứa tuổi này là thời kỳ kết thúc căn bản quá trình trưởng thành và phát triển lâu dài của đứa trẻ về tâm, sinh lý. Có thể nói, nhân cách của các em đã được định hình về cơ bản, trong đó bao gồm cả nhân cách nghề nghiệp.

Cùng với sự phát triển về các mặt như: chiều cao, trọng lượng cơ thể, hệ xương, hệ cơ, các chức năng sinh lý được hoàn thiện thì sự phát triển của hệ thần kinh cũng có những thay đổi quan trọng, do cấu trúc bên trong của bộ não phức tạp và các chức năng của não phát triển hơn. Đây chính là điều kiện cần và đủ cho sự phức tạp hóa HĐ phân tích, tổng hợp trong quá trình học tập và tư duy. Tính chủ động, tích cực, tự giác được thể hiện rõ rệt ở tất cả các quá trình nhận thức. Có thể nói, năng lực tư duy, tưởng tượng và các năng lực khác ở các em được hoàn thiện nhanh chóng và có chất lượng cao. Các quá trình cảm giác và tri giác đạt tới mức độ hoàn thiện và tinh tế. Ở độ tuổi này, tư duy của các em đã có những thay đổi quan trọng: tư duy trừu tượng phát triển mạnh và chiếm ưu thế trong mọi HĐ, đặc biệt là HĐ học tập; Khả năng tư duy lý luận, tư duy độc lập, sáng tạo rất phát triển. Song đôi khi, các em còn kết luận vội vàng nên chưa phát huy được năng lực độc lập, suy nghĩ của mình.

Bên cạnh đó, HS THPT có quá trình tự ý thức, tự giáo dục, tu dưỡng diễn ra sôi nổi, mạnh mẽ, sâu sắc và toàn diện hơn ở tuổi thiếu niên rất nhiều. Phần lớn các em đã ý thức rõ được vai trò, vị trí của mình trong GĐ, NT và XH. Trong GĐ, các em đã là một thành viên chính và muốn được tham gia vào các công việc quan trọng của GĐ, muốn được coi là người lớn. Ngoài XH, các em hăng hái tham gia vào các HĐ XH, vào các mối quan hệ XH để tự rèn luyện bản thân và khẳng định mình. Còn ở trường, các em tích cực học tập để trau dồi tri thức, hoàn thiện nhân cách. Thái độ, ý thức học tập của các em không ngừng được nâng cao và có tính lựa chọn hơn đối với các môn học theo sở thích, định hướng nghề nghiệp của mình. Do đó, không ít HS THPT chỉ tích cực học một số môn có liên quan đến nghề mình yêu thích mà xao nhãng các môn học khác, dẫn đến tình trạng học lệch khá phổ biến. Ở lứa tuổi này, các

em thường băn khoăn, suy nghĩ để tìm ra phương hướng cho cuộc đời mình, các em thường đặt ra những câu hỏi như “mình sẽ ra sao?”, “mình sẽ làm nghề gì?”, “mình sẽ trở thành người như thế nào?”. Vì vậy, công tác QL và tổ chức hiệu quả GDHN ở trường THPT sẽ giúp ích rất nhiều cho tương lai của HS. Thật vậy, càng ở những lớp cuối của cấp học THPT thì HS càng quan tâm, lo lắng đến nghề nghiệp vì các em nhận thức được rằng được làm một nghề mình yêu thích và có ích cho XH chính là niềm hạnh phúc của mỗi con người.

Nhận thức của cộng đồng về “GDHN theo định hướng phát triển NL” cũng được xem như một yếu tố ảnh hưởng đến GDHN và QL GDHN. Theo Nguyễn Văn Lê, toàn XH, các ngành, các cấp cần có nhận thức rõ ràng về vai trò của NNL đối với sự phát triển KT-XH. Mục tiêu đào tạo NL phải là mục tiêu hàng đầu trong hệ thống mục tiêu của GD&ĐT. Nói cách khác, mọi gia đình, mọi cá nhân phải thấy được sự cần thiết và lợi ích của việc đánh giá đúng hoàn cảnh KT, khả năng học tập của bản thân mà lựa chọn con đường học tập cho phù hợp. Cần làm cho toàn XH thấy rằng việc HN cho HS đi vào các hướng khác nhau là bình thường và hợp lý [75]. Do đó, CBQLGD cần nắm vững quan điểm này, tuy nhiên, cần kết hợp với quy hoạch phát triển NL của từng địa phương để có nội dung GDHN riêng, phù hợp với nhu cầu NL của địa phương đó.

Ngoài ra, ở Việt Nam còn xuất hiện tình trạng “thừa thầy thiếu thợ” do tâm lý trọng sự học và trọng bằng cấp đã ăn sâu trong văn hóa Việt Nam, XH thường trọng người “có chữ”, “có học”, thang đo giá trị con người là bằng cấp. Do đó, CBQLGD cần chỉ đạo GD HS thay đổi dần nhận thức về nghề nghiệp, không có nghề nào là thấp kém, nghề nào cũng vinh quang, cũng giúp HS cống hiến cho sự phát triển của đất nước, GĐ và bản thân mình. Từ đó, cần xóa bỏ quan niệm “Đại học là con đường thành công duy nhất” để mạnh dạn theo học nghề và làm những nghề phù hợp với sở thích, năng lực và nhu cầu của XH trong từng giai đoạn phát triển nhất định.

Các phương tiện thông tin truyền thông cũng là một tác nhân có ảnh hưởng nhất định đến chất lượng của GDHN và QL GDHN. CBQLGD cũng cần chú ý và tận dụng ưu điểm của các phương tiện truyền thông, đặc biệt là truyền thông đa phương tiện (truyền hình kỹ thuật số, các trang mạng xã hội, trang web của trường…) như là một kênh cung cấp thông tin thế giới nghề nghiệp hiệu quả, phong

phú và nhanh chóng dành cho HS. Hiện nay, số lượng HS truy cập vào các trang mạng xã hội để tìm kiếm và trao đổi thông tin không phải là ít, do đó, đây sẽ là một yếu tố tích cực cho việc quản lý GDHN ở trường THPT. Đương nhiên là các thông tin cung cấp trên các phương tiện truyền thông này cũng không tách rời quy hoạch nhân lực của địa phương cũng như của cả nước.

Nhận thức của đội ngũ GV, nhân viên trong trường cũng ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả của GDHN vì cần xem đây là nhiệm vụ của cả hội đồng sư phạm nhà trường chứ không phải của bất cứ cá nhân nào hoặc không phải của riêng Ban GDHN (nếu trường có thành lập). Sự phối hợp chặt chẽ, hỗ trợ xuyên suốt, nhịp nhàng giữa các bộ phận, cá nhân trong trường THPT chính là một điểm cộng giúp cho GDHN hiệu quả hơn, đặc biệt trong việc truyền lửa yêu lao động và giúp các em có thái độ đúng đắn đối với lao động. Ngoài ra, sự tin tưởng của HS đối với đội ngũ thầy, cô giáo cũng có ảnh hưởng tích cực khi thầy cô cho lời khuyên định hướng nghề nghiệp dựa vào quá trình theo dõi năng lực, sở thích của HS. Có những HS chọn nghề theo lời khuyên của người thầy, người cô kính mến của mình và đã thành đạt, tuy nhiên, vẫn có trường hợp thầy cô đưa ra lời khuyên tuy phù hợp ở mức độ nào đó với năng lực, sở thích của HS nhưng xã hội lại chưa cần đến ngành nghề cụ thể đó, do đó, HS không có nhiều điều kiện phát triển trong nghề. Thực tế này đòi hỏi mỗi GV, nhân viên của nhà trường cũng cần được tập huấn, hướng dẫn nghiêm túc, khoa học về nhiệm vụ GDHN của nhà trường, đặc biệt là cần bám sát mục tiêu phát triển nhân lực của địa phương và cả nước chứ không định hướng một cách tùy tiện, nghề nào cũng được hoặc không có nghề nào là phù hợp với HS cả.

Ngoài ra, còn có một số yếu tố khác ảnh hưởng đến chất lượng QL GDHN trong NTPT như: điều kiện về cơ sở vật chất; bộ máy tổ chức GDHN; công tác xã hội hóa GDHN của NT; các phương pháp thu thập, xử lý và chia sẻ thông tin GDHN đến GV và HS; việc đổi mới nội dung, phương pháp GDHN cũng như công tác kiểm tra, đánh giá GDHN và sử dụng kết quả kiểm tra, đánh giá nhằm cải tiến chất lượng GDHN.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1

Chương 1 của luận án trình bày cơ sở lý luận của GDHN, phát triển NL và đặc biệt là tìm hiểu chi tiết về cơ sở lý luận của QL GDHN ở trường THPT theo định hướng phát triển NL của một địa phương. Có thể nói đây là một trong những HĐGD luôn gắn liền với mục tiêu giáo dục toàn diện HS nhằm cung cấp cho XH NNL chất lượng cao, có đầy đủ các kỹ năng nghề nghiệp cần thiết, đủ sức cạnh tranh về NL với khu vực, đặc biệt trong thời kỳ nước ta đẩy mạnh HNQT, cùng đứng trong một sân chơi với các nước phát triển có NNL chất lượng cao. Luận án đã đi sâu tìm hiểu QL GDHN ở trường THPT theo định hướng phát triển NL với hướng tiếp cận mục tiêu, nội dung và phương pháp QL GDHN. Ngoài ra, luận án cũng xác định một số yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng QL GDHN mà CBQLGD cần lưu tâm trong suốt quá trình QL, chỉ đạo thực hiện GDHN ở trường THPT theo định hướng phát triển NL.

Cán bộ QLGD cần có nhận thức chính xác hơn về tầm quan trọng, về mục đích, nội dung và phương pháp QL GDHN sao cho hiệu quả hơn, tổ chức bộ máy thực hiện, phát triển đội ngũ và xây dựng cơ sở vật chất cũng như huy động được mọi nguồn lực trong và ngoài trường phục vụ GDHN. Thông qua thực hiện một cách có chủ đích, khoa học, đầy đủ, nghiêm túc và hợp lý 4 chức năng QL cũng như các nội dung QL cụ thể đã được giới thiệu ở trên, CBQLGD sẽ góp phần cùng NT thực hiện hiệu quả mục tiêu GDHN cho HS, đem lại lợi ích thiết thực cho HS, GĐ và XH.

Nói tóm lại, QL GDHN có hiệu quả thì HĐ này mới phát triển nhanh, mạnh và bền vững được, đáp ứng được yêu cầu phân luồng HS sau THPT, nâng cao chất lượng NL của địa phương vì một khi được định hướng nghề nghiệp hiệu quả, HS sẽ chọn được nghề mình yêu thích, có khả năng tiến xa trong nghề hơn, từ đó, chất lượng NNL cũng sẽ được cải thiện, tính cạnh tranh của người lao động Việt Nam sẽ được nâng cao, góp phần đẩy mạnh sự nghiệp CNH-HĐH đất nước trong điều kiện KT thị trường theo định hướng XH chủ nghĩa và HNQT sâu rộng của nước ta hiện nay. Đây chính là mối quan hệ tương hỗ chặt chẽ giữa QL GDHN, phát triển NL và phát triển KT-XH.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT

1. Allan Walker (1995), "Một số vấn đề về quản lý giáo dục ở Australia", Tạp chí thông tin khoa học giáo dục, số 13.

2. Bộ giáo dục và đào tạo (1981), Thông tư 31-TT ngày 17/11/1981 về việc hướng dẫn thực hiện quyết định 126-CP của Hội đồng chính phủ về công tác hướng nghiệp trong trường phổ thông và sử dụng hợp lý học sinh phổ thông tốt nghiệp, Hà Nội.

3. Bộ giáo dục và đào tạo (1990), Quyết định 329/QĐ ngày 31 tháng 3 năm 1990 của Bộ trưởng bộ giáo dục về mục tiêu và kế hoạch đào tạo của trường THPT Hà Nội.

4. Bộ giáo dục và đào tạo (1994), Tài liệu danh mục nghề dạy cho học sinh phổ thông cơ sở và phát triển trung học, Hà Nội.

5. Bộ giáo dục và đào tạo (1998), Đề án xã hội hóa giáo dục và đào tạo – Dự thảo lần 6, Hà Nội.

6. Bộ giáo dục và đào tạo (1998), Những vấn đề về chiến lược phát triển giáo dục trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hóa, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

7. Bộ giáo dục và đào tạo (2000), Chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

8. Bộ giáo dục và đào tạo (2000), Một số cơ sở của công tác hướng nghiệp cho học sinh phổ thông, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

9. Bộ giáo dục và đào tạo (2003), Chỉ thị số 33/2003/CT-BGD&ĐT của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc tăng cường giáo dục hướng nghiệp cho học sinh phổ thông, Hà Nội.

10. Bộ giáo dục và đào tạo (2005), Công văn số 9971/BGD&ĐT-HSSV về Triển khai công tác tư vấn cho học sinh, sinh viên, Hà Nội.

11. Bộ giáo dục và đào tạo (2005), Tài liệu tham khảo triển khai tập huấn bồi dưỡng giáo viên dạy chương trình và sách giáo khoa thí điểm Hoạt động giáo dục hướng nghiệp lớp 11, Hà Nội.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 01/07/2023