1.3. Đặc điểm hoạt động giáo dục an toàn giao thông ở trường Tiểu học
1.3.1. Đặc điểm của học sinh Tiểu học
Học sinh tiểu học là trẻ em, có độ tuổi dao động từ 6 đến 11 tuổi. Học sinh tiểu học có tình cảm hồn nhiên, trong sáng, nhận thức màu sắc cảm tính. Cùng với quá trình học tập và phát triển tâm lý, tình cảm của các em học sinh tiểu học được củng cố và phát triển trên cơ sở nhận thức ngày càng đúng đắn hơn, đầy đủ hơn đối tượng và chuẩn mực của các mối quan hệ trong cuộc sống của các em. Ở mỗi trẻ em, đều tiềm tàng những khả năng phát triển về trí tuệ, lao động, rèn luyện và hoạt động xã hội để đạt một trình độ nhất định về lao động nghề nghiệp, về quan hệ giao lưu và chăm lo cuộc sống cá nhân, gia đình.
Vì vậy, các em học sinh tiểu học chưa có đầy đủ ý thức, chưa có đủ phẩm chất và năng lực như một công dân trong xã hội, mà các em học sinh tiểu học rất cần sự giám hộ, bảo trợ, giúp đỡ của người lớn, của gia đình, nhà trường và xã hội. Các em học sinh tiểu học dễ thích nghi và tiếp thu cái mới và luôn hướng tới tương lai, nhưng cũng thiếu sự tập trung cao độ, khả năng ghi nhớ và chú ý có chủ định chưa được phát triển mạnh, tính hiếu động, dễ xúc động còn bộc lộ rõ nét.
1.3.1.1. Đặc điểm nhận thức cảm tính và lý tính
Đặc điểm tâm lý và nhận thức của học sinh tiểu học tuy đơn giản, dễ nắm bắt nhưng rất khó định hướng và phát triển. Chỉ cần thiếu sự kiên nhẫn và tình thương thì việc giáo dục trẻ sẽ gặp nhiều khó khăn. Sự phát triển trí tuệ hay còn gọi là phát triển nhận thức của học sinh tiểu học đã được các nhà khoa học nghiên cứu và xác định hai quá trình từ cảm tính đến lý tính.
* Nhận thức cảm tính là do các cơ quan cảm giác: Thị giác, thính giác, khứu giác, vị giác, xúc giác đều phát triển và đang trong quá trình hoàn thiện. Và cơ quan tri giác của học sinh tiểu học mang tính đại thể, ít đi vào chi tiết và mang tính không ổn định: ở đầu tuổi tiểu học tri giác thường gắn với hành động trực quan, đến cuối tiểu học tri giác bắt đầu mang tính xúc cảm.
* Nhận thức lý tính
Về tư duy: Tư duy của trẻ mang đậm màu sắc xúc cảm và tư duy trực quan hành động chiếm ưu thế. Các phẩm chất tư duy chuyển từ tính cụ thể sang
tư duy trừu tượng khái quát. Khả năng khái quát hóa và phát triển dần theo lứa tuổi. Tuy nhiên hoạt động phân tích tổng hợp kiến thức còn sơ đẳng ở phần đông học sinh tiểu học
Có thể bạn quan tâm!
- Quản lí hoạt động giáo dục an toàn giao thông cho học sinh tại các trường tiểu học huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ trong giai đoạn hiện nay - 2
- Tình Hình Nghiên Cứu Ở Nước Ngoài
- Hoạt Động Giáo Dục An Toàn Giao Thông Cho Học Sinh Trường Tiểu Học
- Tổ Chức Hoạt Động Và Tổ Chức Bộ Máy Gdatgt Cho Học Sinh Tiểu Học
- Khái Quát Cơ Sở Hạ Tầng Giao Thông Đường Bộ Và Tình Hình Chấp Hành Luật Giao Thông Tại Huyện Thanh Sơn, Tỉnh Phú Thọ
- Giới Thiệu 05 Trường Được Lựa Chọn Khảo Sát
Xem toàn bộ 169 trang tài liệu này.
Về tưởng tượng: Sự tưởng tượng của các em bắt đầu phong phú hơn so với lứa tuổi mầm non do có bộ não phát triển hơn và vốn kinh nghiệm ngày càng được tích lũy dần. Tuy nhiên ở lớp 1 và lớp 2, sự tưởng tượng của các em còn đơn giản, dễ thay đổi nhưng lên những lớp cao hơn, sự tưởng tượng bắt đầu hoàn thiện, có sự sáng tạo.
Ngôn ngữ và sự phát triển nhận thức: Hầu hết học sinh tiểu học đều đã có ngôn ngữ thành thạo, trẻ vào lớp 1 bắt đầu tập viết đến khi học lớp 5 thì ngôn ngữ viết đã thành thạo và hoàn thiện phần ngữ pháp, chính tả, ngữ âm. Nhờ có sự phát triển về ngôn ngữ mà trẻ trẻ có khả năng tự đọc, tự tìm hiểu, tự nhận thức và khám phá thế giới xung quanh
Trí nhớ: Giai đoạn lớp 1 và 2, khả năng ghi nhớ máy móc phát triển tương đối tốt và chiếm ưu thế hơn so với ghi nhớ có ý nghĩa. Nhiều em chưa biết tổ chức việc ghi nhớ có ý nghĩa, chưa biết cách khái quát hóa hoặc xây dựng dàn bài để ghi nhớ tài liệu. Giai đoạn lớp 3, 4, 5 các em bắt đầu ghi nhớ có ý nghĩa và ghi nhớ từ ngữ được tăng cường. Tuy nhiên, hiệu quả của việc ghi nhớ có chủ định còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như mức độ tích cực tập trung trí tuệ cho các em, sức hấp dẫn của nội dung tài liệu, của môn học, yếu tố tâm sinh lý tình cảm hay hứng thú của các em…
Trên đây là những đặc điểm tâm lý và ý thức của học sinh tiểu học mà giáo viên và gia đình cần nắm rõ để có phương pháp giảng dạy và giáo dục con em mình hiệu quả hơn.
1.3.1.2. Đặc điểm tình cảm của học sinh tiểu học
Theo kết quả các nghiên cứu của M.S.eitec và P.I.Iakobson thì đứa trẻ 7 tuổi thường chưa có khả năng tri giác đúng đắn những biểu hiện giận dữ, sự sợ hãi và nỗi kinh hoàng của người khác. Do sự thiếu hoàn thiện trong tri giác và sự hiểu biết những tình cảm mà làm cho học sinh tiểu học thường hay bắt chước máy móc người lớn trong việc biểu hiện tình cảm của mình. Vì thế có thể nói tình cảm của học sinh tiểu
học chưa bền vững, dễ thay đổi. Bởi vậy, cần kết hợp các phương pháp GDATGT cho trẻ với các đặc tính trên để đạt hiệu quả, đồng thời linh hoạt nội dung phương pháp GD theo sự phát triển từng khối lớp, từng học sinh phù hợp với sự phát triển tâm sinh lý của trẻ.
Khi nói về đặc điểm tâm lý tình cảm của học sinh tiểu học, vấn đề tình thân, tình bạn, … cũng là một yếu tố rất quan trọng trong quá trình phát triển của trẻ ở lứa tuổi này. Đối với các em học sinh tiểu học, tình cảm có vị trí vô cùng đặc biệt vì nó gắn kết nhận thức với hoạt động của trẻ em. Tình cảm tích cực sẽ kích thích trẻ em nhận thức tốt và thúc đẩy các em hoạt động đúng đắn.
Ở lứa tuổi này, đời sống xúc cảm, tình cảm của các em khá phong phú, đa dạng và cơ bản là mang trạng thái tích cực. Các em bỡ ngỡ, lạ lẫm nhưng cũng nhanh chóng bắt nhịp làm quen với bạn mới, bạn cùng lớp. Trẻ tự hào vì được gia nhập Đội, hãnh diện vì được cha mẹ, thầy cô đánh giá cao hay giao cho những công việc cụ thể. Các em đã biết điều khiển tâm trạng của mình, thậm chí còn biết che giấu khi cần thiết. Nhìn chung, học sinh tiểu học thường có tâm trạng vô tư, sảng khoái, vui tươi, đó cũng là những điều kiện thuận lợi để giáo dục cho các em những chuẩn mực đạo đức cũng như hình thành những phẩm chất trí tuệ cần thiết.
1.3.1.3. Đặc điểm về tính cách
Việc hình thành nhân cách học sinh tiểu học mang những đặc điểm cơ bản sau: Nhân cách của các em lúc nào cũng mang tính chỉnh thể và hồn nhiên, luôn bộc lộ những nhận thức, tư tưởng, tình cảm, ý nghĩ của mình một cách vô tư, hồn nhiên, thật thà và ngay thẳng; những năng lực, tố chất của các em còn chưa được bộc lộ rõ rệt. Việc hình thành nhân cách sẽ được hoàn thiện dần cùng với tiến trình phát triển của mình. GDATGT cho học sinh lứa tuổi hình thành nhân cách này là vấn đề rất phức tạp nhưng không phải nan giải.
Tri giác của học sinh tiểu học phản ánh những thuộc tính trực quan, cụ thể của sự vật, hiện tượng và xảy ra khi chúng trực tiếp tác động lên giác quan. Tri giác giúp cho trẻ định hướng nhanh chóng và chính xác hơn trong thế giới. Trong sự phát triển tri giác của học sinh, giáo viên tiểu học có vai trò rất lớn trong việc chỉ dạy cách nhìn, hình thành kỹ năng nhìn cho học sinh, hướng dẫn các em biết xem xét, biết lắng nghe.
Chú ý có chủ định của học sinh tiểu học còn yếu, khả năng điều chỉnh chú ý của các em có ý chí chưa mạnh. Do đó, việc sử dụng một số đồ dùng dạy học trực quan sẽ là phương tiện quan trọng để giáo viên tổ chức sự chú ý cho các em học sinh tiểu học, làm cho giờ học thêm hấp dẫn để kích thích và lôi cuốn sự chú ý của học sinh. Bên cạnh sự chú ý, thì trí nhớ cũng là một nét tính cách quan trọng của học sinh tiểu học. Lứa tuổi học sinh tiểu học sẽ có trí nhớ trực quan - hình tượng chiếm ưu thế nhiều hơn so với trí nhớ từ ngữ - logic. Tư duy của các em chuyển từ tuổi mầm non sang tuổi tiểu học, đến trường để học tập là tư duy cụ thể, thường dựa vào các đặc điểm trực quan sinh động của đối tượng và hiện tượng cụ thể. Trong quá trình hình thành và phát triển tư duy của các em học sinh tiểu học, tính trực quan cụ thể vẫn còn thể hiện ở các lớp đầu cấp là lớp 1 và lớp 2, sau đó mới chuyển dần thành tính khái quát hóa ở các lớp cuối cấp như lớp 4 và lớp 5.
Tóm lại, học sinh tiểu học hồn nhiên, trong sáng, dễ thích nghi và tiếp nhận cái mới, luôn hướng tới tương lai nhưng các em chưa đủ ý thức, chưa đủ phẩm chất và năng lực như một công dân trong xã hội mà các em luôn cần sự bảo trợ, giúp đỡ, định hướng của người lớn, của gia đình, nhà trường và xã hội. Việc phát triển nhận thức cho học sinh tiểu học là một quá trình. Sự phát triển nhận thức cho trẻ ở lứa tuổi này về vấn đề ATGT đòi hỏi mỗi nhà GD phải kiên trì bền bỉ. Do đó, mỗi bậc cha mẹ, thầy cô trước hết phải là tấm gương cho trẻ trong công tác giáo dục.
1.3.2. Mục đích, ý nghĩa của giáo dục an toàn giao thông cho học sinh Tiểu học
Mục tiêu giáo dục an toàn giao thông ở trường tiểu học là một bộ phận quan trọng của quá trình giáo dục nói chung. Giáo dục an toàn giao thông góp phần thực hiện, mục đích chung của quá trình giáo dục, hình thành cho học sinh những cơ sở ban đầu nhưng rất quan trọng của nhân cách người công dân để các em nghiêm túc tuân thủ luật pháp, hiểu được tầm quan trọng của vấn đề ATGT.
Giáo dục an toàn giao thông ở Tiểu học nhằm đạt được mục đích sau:
Giúp học sinh có nhận thức về an toàn giao thông và các kỹ năng thực tế để áp dụng vào các hành vi hàng ngày khi các em đi trên đường. Học sinh phải biết về luật và hệ thống phương tiện giao thông, VD: Tránh xe thì phải tránh về bên phải, vượt xe là bên trái. Khi sang đường phải đi đúng phần đường cho người đi bộ và tín
hiệu đèn xanh mới được đi... Phải bắt đầu từ những cái sơ khai nhất như đèn đỏ phải dừng lại, đèn xanh được đi.
Từng bước xây dựng cho các em học sinh ứng xử có văn hoá, đúng pháp luật, xoá bỏ những thói quen tuỳ tiện vi phạm quy tắc giao thông, hình thành cho các em ý thức tự giác tuân thủ pháp luật khi tham gia giao thông góp phần xây dựng môi trường giao thông trật tự, khoa học, an toàn, văn minh, thân thiện.
1.3.3. Nội dung hoạt động giáo dục an toàn giao thông cho học sinh trong trường Tiểu học
Giáo dục an toàn giao thông cho các em học sinh tiểu học nhằm xây dựng ý thức giao thông cho các em từ nhỏ, hình thành những thói quen tốt sau này. Vì vậy, nội dung giáo dục pháp luật về an toàn giao thông cho học sinh tập trung nâng cao về nhận thức pháp luật và tâm lý pháp luật cho các em, cụ thể là:
Bám sát nội dung của Luật giao thông đường bộ (Đã được Quốc hội Khóa 12 thông qua ngày 18/11/2008), những nghị định của Thủ tướng chính phủ, các văn bản dưới luật khác liên quan đến đảm bảo an toàn giao thông. Truyền thụ cho học sinh những hiểu biết có tính phổ biến, cần thiết về luật giao thông đường bộ và những quy định về giao thông đường sắt, đường thuỷ một cách dễ hiểu, dễ nhớ, phù hợp với nhận thức của các em.
Lấy việc hình thành kỹ năng, hành vi đúng làm cơ bản. Giúp cho học sinh có hành vi đúng và biết cách xử lý các tình huống giao thông theo quy định của Luật giao thông đường bộ, khi đi đường học sinh không cần thuộc câu chữ trong luật nhưng có hành vi đúng theo quy định của Luật giao thông đường bộ.
Dạy từ đơn giản đến phức tạp, từ dễ đến khó theo sự phát triển nhận thức của trẻ em, có nội dung trùng lặp (sự lặp lại) nhằm củng cố khắc sâu thêm và tăng cường rèn luyện kỹ năng.
Chủ đề giáo dục an toàn giao thông xoay quanh 8 nội dung sau:
• Đi bộ và qua đường an toàn trên đường phố, trục lộ giao thông.
• An toàn khi ngồi trên xe máy, xe đạp và các phương tiện giao thông khác.
• Cách đi xe đạp an toàn trên đường phố (kỹ năng đi xe an toàn).
• An toàn khi đi trên những phương tiện giao thông công cộng...
• Hiểu biết các hiệu lệnh điều khiển và chỉ huy giao thông (Điều khiển giao thông của cảnh sát giao thông).
• Đèn tín hiệu giao thông, biển báo hiệu giao thông, vạch kẻ trên đường...
• Những điều kiện an toàn, chưa an toàn của đường phố.
• Các loại đường giao thông và các phương tiện giao thông.
• Tìm hiểu các nguyên nhân cơ bản gây tai nạn giao thông, cách phòng tránh tai nạn giao thông, trách nhiệm của học sinh trong việc đảm bảo an toàn giao thông.
Nội dung giáo dục ATGT đường bộ được quy định cụ thể đối với bậc Tiểu học theo những quy định luật pháp về trật tự ATGT và tập trung vào các vấn đề như sau:
- Đi bộ trên đường an toàn, đi bộ qua đường an toàn, đi xe đạp trên đường an toàn.
- Dự đoán để tránh các tình huống nguy hiểm, phòng tránh va chạm khi tầm nhìn bị che khuất và cảnh báo chơi đùa ở những nơi nguy hiểm dễ xảy ra tai nạn giao thông.
- An toàn khi ngồi trên xe đạp, xe máy, quy định về đội mũ bảo hiểm; an toàn khi đi ô tô, xe buýt và các phương tiện giao thông đường thủy.
- Hiệu lệnh của tín hiệu đèn giao thông, hiệu lệnh và chỉ dẫn của báo hiệu đường bộ, hiệu lệnh của cảnh sát giao thông; văn hóa khi tham gia giao thông [7].
1.3.4. Các hình thức giáo dục an toàn giao thông cho học sinh trong trường Tiểu học
Trong các trường Tiểu học hiện nay, giáo dục ATGT được tiến hành theo một số hình thức chủ yếu sau:
1.3.4.1. Dạy, học ATGT theo tài liệu của Bộ GD&ĐT phối hợp với UBATGT Quốc gia biên soạn từ lớp 1 - lớp 5 trong chương trình giáo dục phổ thông
Điều 6 Luật giao thông đường bộ quy định: “Cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo có trách nhiệm đưa pháp luật giao thông đường bộ vào giảng dạy trong nhà trường phù hợp với các cấp học ngành học.”
Nghị quyết 32/2007/NQ-CP ngày 29/6/2007 của Chính phủ về một số giải pháp cấp bách nhằm kiềm chế TNGT và ùn tắc GT: Bộ GD & ĐT có trách nhiệm: Ban hành chương trình GDTTATGT phù hợp trong nhà trường, tăng thời lượng giảng dạy chính khóa, các hoạt động ngoại khóa về TTATGT. Thực hiện chương trình giảng dạy TTATGT mới từ niên học 2008-2009 ở tất cả các cấp học.
Trên cơ sở các quy định trên, trong những năm qua, ngành giáo dục đã triển khai biên soạn và đưa vào giảng dạy bộ tài liệu giáo dục an toàn giao thông cho học sinh các bậc học từ mầm non đến đại học. Riêng đối với Tiểu học, từ lớp 1 đến lớp 4 mỗi lớp có 6 bài học về ATGT trong Tài liệu Giáo dục ATGT, lớp 5 có 5 bài học về ATGT trong Tài liệu Giáo dục ATGT cho học sinh Lớp 5. Nội dung được hình ảnh hoá một cách sinh động, gắn với thực tế, giúp học sinh dễ hiểu, dễ tiếp thu, được biên soạn riêng cho từng lớp, mỗi lớp có nội dung chủ đề khác nhau, hoặc có cùng chủ đề nhưng khác nhau ở nội dung bài học cũng như các câu hỏi và bài tập, phù hợp với lứa tuổi của HS ở mỗi lớp. Các chủ đề cho từng lớp phù hợp với các chủ đề ngoại khoá về ATGT được thực hiện trong trường phổ thông.
Ngoài các tài liệu trên, hiện nay Quỹ TOYOTA Việt Nam đang phối hợp với Bộ GD&ĐT triển khai GDATGT cho học sinh lớp 1 bằng các nhân vật hoạt hình Rùa và Thỏ và Công ty TOYOTA Việt Nam triển khai thí điểm Sách ATGT cho nụ cười trẻ thơ do Honda tài trợ với 12 bài học bằng hình ảnh cho học sinh lớp 3.
Hiện nay, phương pháp giảng dạy ở bậc tiểu học đã được đổi mới không nặng về lý thuyết, cần được vận dụng triệt để trong giảng dạy về ATGT. Cụ thể: Dạy học tích cực với những hình thức hoạt động nhẹ nhàng sinh động trong từng bài dạy nhất là những bài học về ATGT là một nội dung khô khan đơn điệu dễ nhàm chán.
Để giúp các thầy giáo, cô giáo trong nhà trường tiểu học có thể thực hiện đổi mới phương pháp dạy học về ATGT, những bài học gợi ý trong sách giáo khoa được trình bày theo cấu trúc sau:
1. Mục tiêu bài học gồm toàn bộ những kiến thức, kĩ năng và thái độ mà các em HS cần phải đạt được sau mỗi bài học về ATGT. GV cần tập trung vào những mục tiêu giảng dạy để thực hiện bài dạy một cách có hiệu quả nhất.
2. Chuẩn bị nội dung giảng dạy là phần mà GV và HS chuẩn bị đồ dùng dạy
- học cho bài học về ATGT và các điều kiện cần thiết cho tiết học ATGT.
3. Các hoạt động dạy học về ATGT chủ yếu là những nội dung hoạt động dạy học cụ thể trong một tiết học nhằm đạt được mục tiêu của bài học.
1.3.4.2. Thực hiện dạy lồng ghép trong các môn học văn hóa
Dạy lồng ghép có nghĩa là đưa những nội dung giáo dục có liên quan vào quá
trình dạy học các môn học như: lồng ghép giáo dục đạo đức, lối sống; giáo dục pháp luật; giáo dục chủ quyền quốc gia về biên giới, biển, đảo; giáo dục sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, bảo vệ môi trường, an toàn giao thông... vào các môn học có liên quan như Đạo đức; TNXH, Khoa học … Cụ thể trong chương trình Tiểu học có:
Lớp 1: 3 tiết trong môn Tự nhiên - Xã hội và Đạo đức. Lớp 2: Thời lượng: 2 tiết trong môn Tự nhiên - Xã hội. Lớp 3: 1 tiết trong môn Tự nhiên - Xã hội.
Lớp 4: 1 tiết ở chủ đề Con người và sức khỏe trong môn Khoa học; 2 tiết trong môn Đạo đức.
Lớp 5: 1 tiết ở chủ đề Con người và sức khỏe trong môn Khoa học.
1.3.4.3. Tổ chức thông qua hoạt động GDNGLL
Tổ chức hội thi vẽ tranh, hội thi học tốt thể hiện những hiểu biết về ATGT. Tổ chức sân chơi về ATGT nhằm thực hành kỹ năng ATGT đường bộ.
Tổ chức ký cam kết thực hiện ATGT giữa trường, học sinh, gia đình.
Sân khấu hóa hoạt động GD ATGT: tổ chức luyện tập chơi trò chơi và diễn những tiểu phẩm vui về ATGT…
Học sinh tham gia thi Giao thông thông minh trên trang web:http://gttm.go.vn/ Cuộc thi Giao thông thông minh trên Internet là một hoạt động nhằm giáo dục kiến thức, kỹ năng, thay đổi nhận thức, hành vi của học sinh, sinh viên và các đối tượng khác khi tham gia giao thông, góp phần xây dựng văn hóa giao thông
1.4. Nội dung quản lý hoạt động giáo dục ATGT cho học sinh trong nhà trường Tiểu học
Theo quan điểm phổ biến hiện nay, quản lý hoạt động GD ATGT là một bộ phận của quản lý giáo dục. Do đó quản lí hoạt động giáo dục ATGT theo các nội dung cơ bản sau:
1.4.1. Lập kế hoạch giáo dục an toàn giao thông cho học sinh tiểu học
Lập kế hoạch là quá trình thiết lập, dự tính một cách khoa học các mục tiêu, nội dung, phương pháp, trình tự, thời gian tiến hành các công việc, chuẩn bị huy động các nguồn lực (nhân lực, vật lực, tài lực, thông tin,…) để triển khai các hoạt động một cách chủ động nhằm đạt kết quả cao nhất các mục tiêu giáo dục của nhà