Thống Kê Các Lễ Hội Truyền Thống Ở Phú Thọ Gắn Với Di Tích

trồng lúa nước. Nghề làm lúa nước phải phụ thuộc vào thiên nhiên mùa vụ, phụ thuộc vào thời tiết, sau một vụ nông nghiệp cấy hái xong, cư dân mới có thời gian để hội hè. Trong nghề nông, tháng giêng là tháng nông nhàn, thời tiết lại bắt đầu ấm áp, nhân dân mới có dịp để mở hội.

Đặc điểm thứ tư là các lễ hội truyền thống ở Phú Thọ đều gắn với di tích đình, đền, chùa. Có thể tạm gọi các di tích gắn với lễ hội như phần hồn và phần xác, di tích là phần xác còn lễ hội là phần hồn.

Bảng 2.3: Thống kê các lễ hội truyền thống ở Phú Thọ gắn với di tích



STT


Tên đơn vị


Tổng số

Địa điểm tổ chức lễ hội


Ghi chú

Đình

Đền

Chùa

Nơi

khác

1.

Việt Trì

31

18

11

0

3


2.

Phú Thọ

14

11

3

0

0


3.

Cẩm Khê

30

21

8

0

1


4.

Đoan Hùng

12

12

0

0

0


5.

Lâm Thao

24

16

5

0

3


6.

Hạ Hoà

13

10

3

0

0


7.

Thanh Ba

13

13

0

0

0


8.

Tam Nông

31

14

11

1

7


9.

Yên Lập

6

3

0

0

3


10.

Thanh Sơn

18

11

0

0

7


11.

Thanh Thủy

14

9

9

0

2


12.

Phù Ninh

24

21

1

0

2



Cộng

228

159

51

1

28


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 134 trang tài liệu này.

Bảo tồn và phát huy di sản lễ hội để phát triển du lịch ở Phú Thọ hiện nay - 8

Nguồn: Tác giả thống kê.

Phân tích biểu thống kê tổng hợp trên cho thấy có 159/228 chiếm 69% lễ hội truyền thống được tổ chức ở đình, 51/228 lễ hội truyền thống được tổ chức ở các đền, miếu còn 28 lễ hội được tổ chức ở các nơi khác.

Đình làng là nơi thờ Thành Hoàng, là nơi sinh hoạt cộng đồng, các nhân vật được thờ cúng tưởng niệm đều là những nhân vật thiêng có công có đức với dân được coi là Thành Hoàng làng, vùng Phú Thọ chủ yếu là thờ Tản viên Sơn Thánh, Quý Minh Đại Vương… được nhiều làng thờ phụng ở đình coi là Thành Hoàng che chở phù hộ cho muôn dân. Một số ít lễ hội được tổ chức cả ở đình và đền như lễ hội đình đền Đào Xá thờ Hùng Hải Công ở đình và 3 vị thủy thần ở Đền Huý là Tam Công, con của Hùng Hải Công hoặc lễ hội đền - đình La Phù thờ Tản viên Sơn, Đệ Tam thuỷ thần. Có một số ít lễ hội tổ chức ở cánh đồng, bãi sông như các lễ hội cướp kén, ném còn, múa mỡi, đánh trống đu, bơi chải…

Các lễ hội truyền thống được tổ chức ở đình, đền đều có lễ tế, rước kiệu và các trò diễn dân gian, việc tổ chức các lễ hội chủ yếu tập trung ở đình cho thấy sự lô gich trong tín ngưỡng dân gian người Việt cổ là sự tin tưởng vào thế giới tâm linh, gửi gắm niềm tin vào sự che chở của Vua Hùng và tổ tiên; Các lễ hội ở đình là một hoạt động chung của cộng đồng toàn thể làng xã nông thôn. Nó khẳng định giá trị đoàn kết, cố kết cộng đồng của lễ hội, sự cộng mệnh, cộng cảm sẽ làm cho tinh thần đoàn kết cộng đồng được chặt chẽ hơn.

Đặc điểm thứ năm của lễ hội truyền thống ở tỉnh Phú Thọ là tín ngưỡng phồn thực và tục thờ lễ sinh thực khí. Tín ngưỡng phồn thực là tín ngưỡng về sinh sản, tín ngưỡng về phồn thịnh của sản xuất và thịnh vượng của mùa màng, đó là tín ngưỡng của người trồng trọt bắt đầu từ nghề trồng lúa nước. Tín ngưỡng phồn thực có nét đặc thù là biểu hiện thông qua hình tượng sinh thực khí và hành động tính giao nam nữ. Nghiên cứu các lễ hội vùng Phú Thọ nhất là các lễ hội truyền thống khu vực quanh Đền Hùng như Lâm Thao, Phù Ninh, Việt Trì, Tam Nông có rất nhiều lễ hội với tín ngưỡng phồn thực và tục thờ sinh thực khí với nhiều dạng thức khác nhau. Nhưng các nghi lễ đều xung quanh trục giao phối nam nữ, hoà hợp âm dương và biểu tượng chủ yếu là hình tượng, vùng Phú Thọ gọi là “nõ” và "nường” (Khoa học thế giới gọi là LINGA và YONI). Qua khảo sát thực tế và phân tích, tín ngưỡng phồn thực và lễ hội sinh thực khí ở Phú Thọ biểu hiện ở nhiều hình thức, điển hình là thờ lễ sinh thực khí không rước hoặc rước ở vùng Lâm Thao, Tam Nông như lễ hội Trò Trám - Tứ Xã huyện - Lâm Thao. Thờ Nõ - Nường còn gọi là “vật linh”, người ta gọi là lễ "Linh tinh tình phộc”, khi chủ tế hô linh tinh tình phộc thì đôi

trai gái (nam cầm nõ, nữ cầm nường) chạm hai vật linh vào nhau. ở Hương Nha, huyện Tam Nông cũng diễn ra lễ hội tương tự nhưng có rước vật linh, khi hai đoàn rước gặp nhau thì mỗi bên cầm một vật linh, đôi trai gái chạm nõ nường vào nhau ba lần với những câu hát "Cái sự làm sao, cái sự làm vầy ”. Tín ngưỡng phồn thực ở Phú Thọ còn thể hiện dưới các hình thức cướp “kén”. Kén là một cặp Nõ - Nường nhiều địa phương tổ chức trò cướp kén vào những ngày đầu xuân như huyện Tam Nông các xã Dị Nậu, Cổ Tiết vào tháng giêng tổ chức treo khoảng 20 -30 cặp "Nõ - Nường” trên cành tre, sau khi tổ chức tế lễ xong thì rung cành tre cho mọi người vào cướp "Nõ

- Nường”, ai cướp được thì đem về nhà để vào đầu giường để hoặc treo giàn bầu, giàn bí cho sai quả. Tín ngưỡng phồn thực còn thể hiện dưới các hình thức nghệ thuật như múa Tùng dí. Đây là nghi lễ tính giao được nghệ thuật hoá. Trong lễ hội Rước Chúa Gái - Thị trấn Hùng Sơn, huyện Lâm Thao có trò múa Tùng Dí, ba cặp trai gái múa với các đòn gánh buộc xôi ngô, bông lúa vừa ưỡn người vừa làm động tác "dí” vào nhau sau mỗi tiếng trống "tùng”. Tín ngưỡng phồn thực và thờ lễ sinh thực khí ở vùng đất Tổ gắn với các hoạt động nông nghiệp. Thường sau lễ rước hoặc lễ tế vật linh xong thì có các trò trình nghề hoặc nếu được nghệ thuật hoá trong các điệu múa thì các hoạt động này cũng thể hiện sự gắn kết với nền nông nghiệp lúa nước, tức là qua các hoạt động tính giao để cầu mong cho con người thịnh vượng, mùa màng tốt tươi “Người nguyên thuỷ nhận thức hồn nhiên rằng sinh sinh hoạt tính dục, giới tính đã sản sinh ra con người, phát triển bộ lạc, vậy thì để tác động tới cây trồng cũng như con người cần có tính dao hay sinh hoạt tình dục đực -cái để tạo hưng phấn, thúc đẩy cho cây trồng sinh đẻ’’ [69, tr.379].

Qua sự phân tích trên có thể thấy tín ngưỡng phồn thực và tục thờ lễ sinh thực khí ra đời vào thời kỳ Hùng Vương dựng nước khi tư liệu phục vụ sản xuất và chiến đấu bảo vệ con người còn thiếu thốn cho nên việc cầu mùa, cầu đinh là ước mong cao nhất của nhân dân Văn Lang.

Với năm đặc điểm trên, lễ hội truyền thống vùng đất Tổ thực sự là một kho tàng về thời Hùng Vương dựng nước.

2.2.2.2. Những lễ hội tiêu biểu

* Lễ hội đền Hùng (xã Hy Cương, thành phố Việt Trì):

Lễ hội đền Hùng là lễ hội nổi tiếng không chỉ trong phạm vi tỉnh Phú Thọ mà còn trong cả nước. Người Việt Nam dù ở đâu cũng không thể quên được ngày giỗ Tổ Hùng Vương:

Dù ai đi ngược về xuôi

Nhớ ngày giỗ Tổ mồng 10 tháng 3

Cứ đến tháng 3 âm lịch, nhân dân cả nước lại nô nức hành hương về giỗ Tổ. Khu di tích lịch sử đền Hùng nằm trên núi Nghĩa Lĩnh (còn có tên là núi Cả) thuộc xã Hy Cương - thành phố Việt Trì. Xưa kia đây là nơi các vua Hùng đóng đô lập nước. Sau được nhân dân dựng đền thờ phụng. Khu vực đền Hùng gồm năm di tích dựng trên sườn núi. Đó là đền Hạ, đền Trung, đền Thượng, đền Giếng và chùa Thiên Quang. Ngay dưới đền Thượng có mộ Tổ tương truyền là của Vua Hùng Vương thứ 6.

Thời Hậu Lê, lễ hội đền Hùng chưa có quy mô vượt xa ngoài địa phương, chưa có lễ hội với nội dung giỗ Tổ chung cả nước mà chỉ mở hội ở 3 làng riêng rẽ: Làng Vi, làng Trẹo mở hội tháng Giêng, làng Cổ Tích mở hội từ mồng 8-12 tháng 3 âm lịch. Dân làng Cổ Tích được nhận là "con trưởng tạo lệ", được cấp 500 mẫu ruộng để đèn nhang cúng lễ, miễn thuế khoá. Cuốn Ngọc phả Hùng Vương chép thời Hồng Đức có đoạn: " Từ đời nhà Đinh, nhà Lê, nhà Lý, nhà Trần rồi đến triều đại ta bây giờ là Hồng Đức Hậu Lê vẫn cùng hương khói trong ngôi đền làng Trung Nghĩa (Cổ Tích). ở đây nhân dân toàn quốc đến đền lễ bái để tưởng nhớ công lao của các đấng Thánh tổ xưa". [68].

Đến thời nhà Nguyễn, định lệ năm năm mở hội lớn một lần, vào mồng 10 tháng 3 âm lịch có quan triều đình, quan tỉnh về cúng lễ. Từ đó ngày giỗ Tổ là ngày mồng 10 tháng 3 âm lịch hàng năm.

Trong lễ hội đền Hùng, các thủ tục hành lễ được tuân theo quy định của lễ giáo phong kiến rất chặt chẽ. Phần lễ được diễn ra trang nghiêm, trọng thể tại các đền và chùa Thiên Quang trên núi Nghĩa Lĩnh. Phần hội được tổ chức trong một không gian rộng khoảng vài km2 với nhiều trò chơi dân gian phong phú và hấp dẫn tạo cho lễ hội có không khí tấp nập, náo nhiệt. Vào ngày giỗ Tổ, nhiều địa phương ở các vùng lân cận có thờ tự Vua Hùng, vợ con và các tướng lĩnh của các Vua Hùng tổ chức rước kiệu về dự giỗ Tổ. Ban tổ chức có chấm giải cho các làng xã có kiệu tham gia: Kiệu nào đẹp, đoạt

giải thì được rước lễ vật là bánh chưng, bánh dầy lên núi để dâng Vua Hùng trong buổi hành lễ vào sáng mùng 10 tháng 3. Còn các kiệu của các làng xã khác đoạt giải thấp hơn thì rước xung quanh lễ hội để mọi người chiêm ngưỡng và tạo không khí trang nghiêm cho lễ hội. Ngoài ra còn có nhiều trò diễn, các trò chơi dân gian như đánh trống đồng, đâm đuống, đấu vật, chọi gà, kéo lửa thổi cơm thi, đánh cờ người làm cho không khí ngày hội thêm tưng bừng, phấn khởi. Bên cạnh đó, những hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể thao hiện đại cũng được tổ chức để phục vụ đồng bào về dự lễ hội tạo nên một không khí hội hè tưng bừng nhộn nhịp.

Ngày nay trong phần nghi lễ, có nghi thức dâng hoa của các đoàn đại biểu Đảng, Chính phủ, các tỉnh thành được tổ chức long trọng trên đền Thượng. Đồng chí lãnh đạo tỉnh thay mặt cho tỉnh và nhân dân cả nước (năm chẵn là nguyên thủ quốc gia) kính cẩn đọc diễn văn lễ Tổ.

Phần hội cũng có những hình thức sinh hoạt văn hoá phong phú hấp dẫn hơn xưa. Trong khu vực hội, nhiều cửa hàng bán đồ lưu niệm, văn hoá phẩm, các quán bán hàng dịch vụ ăn uống, các khu hoạt động biểu diễn văn nghệ, thi đấu thể thao...vv được tổ chức và duy trì trật tự, quy củ. Tại khu Văn - Thể, các trò chơi dân gian được ban tổ chức chọn lọc đưa vào phục vụ lễ hội như đấu vật, bắn nỏ, rước kiệu, thi giã bánh dày, gói bánh chưng, thi kéo lửa thổi cơm, trò diễn " Bách nghệ khôi hài" và "Trò tứ dân chi nghiệp” của làng Tứ Xã, rước lúa Thần... Cạnh đó là sân khấu của các đoàn nghệ thuật chuyên nghiệp như chèo, kịch nói, hát quan họ, hát xoan, chiếu bóng, có cả hội diễn văn nghệ quần chúng để tuyển chọn nhân tài. Trên khu Công quán thì âm vang tiếng trống đồng và tiếng giã đuống rộn ràng của các nghệ nhân dân gian người dân tộc Mường ở Thanh Sơn ra phục vụ lễ hội. Ngoài ra mọi người về dự hội còn được tham quan Bảo tàng Hùng Vương, nơi lưu giữ và trưng bày các hiện vật phản ánh thời đại Hùng Vương dựng nước để tìm hiểu lịch sử truyền thống dựng nước trên quê hương đất Tổ.

Tín ngưỡng thờ cúng vua Hùng và lễ hội Giỗ Tổ Hùng Vương đã trở thành lễ hội mang tính văn hoá tâm linh lớn nhất ở nước ta. Đến ngày giỗ Tổ và tổ chức lễ hội, con cháu trên mọi miền đất nước nườm nượp kéo về với tấm lòng thành kính dâng lên tổ tiên, tỏ lòng biết ơn công lao dựng nước của các vua Hùng và các bậc tiền nhân của dân tộc.

* Lễ hội đền Mẫu Âu Cơ (xã Hiền Lương, huyện Hạ Hoà):

Đền Mẫu Âu Cơ thờ bà Âu Cơ, tương truyền là người Mẹ đã sinh ra 100 người con, tổ tiên của người Việt, vì vậy đây được coi là ngôi đền thờ Quốc Mẫu rất nổi tiếng ở tỉnh Phú Thọ. Hàng năm, dân làng Hiền Lương tổ chức lễ hội đền Mẫu vào ngày mồng 7 tháng Giêng âm lịch.

Trong vùng có câu ca đã được lưu truyền từ bao đời nay:

Mồng bảy trong tiết tháng giêng Dân Hiền tế lễ trống chiêng vang trời.

Sau Tết Nguyên đán là bước ngay vào không khí chuẩn bị cho lễ hội: Tập tế nữ, tập rước kiệu, làm bánh dằng bằng mật là thứ bánh truyền thống của địa phương được phân công cho mỗi năm một giáp đảm nhiệm. Bánh được làm bằng bột gạo nếp thơm và mật ngon, nhào kĩ rồi lăn thành hình tròn, sau đó cắt thành từng đoạn như đốt tre và được hấp chín. Một trăm cầu bánh ngọt là lễ vật tượng trưng cho một trăm người con dâng lên mẹ âu Cơ trong ngày lễ hội. Sáng sớm mùng 7 tháng Giêng. Trên sân đền, cờ xí phấp phới tung bay trước gió xuân, trống, chiêng rộn rã thúc giục lòng người.

Mở đầu lễ hội là lễ tế thành hoàng ở đình Đức Ông, sau đó rước kiệu từ đình vào đền Quốc Mẫu. Trong tiếng trống, chiêng, tiếng nhạc của phường bát âm, một kiệu bát cống sơn son thiếp vàng uy nghi do tám cô gái mặc đồng phục khiêng nhẹ nhàng theo nhịp trống, phách đi vào đền. Đi đầu là rước cờ thần, sau đó là kiệu bát cống rước lễ vật, sau kiệu là các vị chức sắc và các cụ bô lão mặc áo thụng xanh, đầu đội khăn xếp và dân làng tham gia lễ hội.

Đúng giờ Thìn đám rước vào đến sân đền. Bắt đầu là lễ dâng hương với lễ vật là 100 cầu bánh ngọt, 100 phẩm oản và hoa quả. Sau đó là đội tế nữ gồm 12 cô gái thanh tân có nhan sắc và đức hạnh tiến hành tế Mẫu theo nghi thức truyền thống. Các cô gái mặc áo dài các màu rực rỡ, đầu đội khăn kim tuyến, chân đi hài thêu, thắt lưng dải lụa. Chủ tế nữ mặc bộ lễ phục màu đỏ.Tế nữ là người được chọn cử cẩn thận, chu đáo để đảm nhiệm nội dung quan trọng của phần lễ. Tế xong, nhân dân địa phương và khách thập phương nô nức vào đền để lễ Mẫu âu Cơ. Trong lúc đó ngoài sân diễn ra các trò chơi dân gian như đu tiên, đánh cờ người, chọi gà, tổ tôm điếm v.v... Buổi chiều, dân làng rước kiệu từ đền Mẫu Âu Cơ trở về đình Đức ông, kết thúc lễ hội.

Xưa kia lễ hội kéo dài trong 3 ngày, hiện nay lễ hội đền Mẫu chỉ tổ chức trong một ngày mồng bảy và được duy trì rất đều đặn hàng năm. Do đây là nơi thờ gốc Quốc Mẫu (tương truyền là nơi bà Âu Cơ hoá) nên ngôi đền có giá trị tâm linh rất cao và thu hút được rất đông đảo nhân dân và du khách về dự lễ hội.

* Lễ hội trò Trám (xã Tứ Xã - huyện Lâm Thao):

Tại xóm Trám xã Tứ Xã có một ngôi miếu thờ nữ thần, thường gọi là bà Đụ Đị. Vào ngày 11-12 tháng Giêng có tổ chức trò Trám rất đặc sắc. Trò Trám gồm nội dung: Lễ mật - Rước lúa thần - Trò tứ dân.

Lễ mật: (còn gọi là lễ lấy giờ) diễn ra vào nửa đêm ngày 11 tháng giêng. Dân xóm trước đó đã cử trước một ông cụ cao tuổi, gia đình sạch sẽ không có tang ma thuộc người xóm Trám hoặc ông từ của miếu Trò làm chủ lễ, gần nửa đêm ông chủ lễ dẫn một số thanh niên độ 5 - 10 người mang trống, chiêng ra miếu để lấy giờ, đánh dấu một mốc thời gian báo hiệu ngày mới. Lễ này là biểu hiện đặc sắc của tín ngưỡng thờ phồn thực nông nghiệp. Khoảng 10 giờ đêm ngày 11 tháng giêng, ông chủ tế tập hợp từ 5 -10 người ở điếm Trám rồi cùng nhau khiêng trống, khiêng chiêng sang miếu Trò. Tới miếu mọi người ngồi chờ đợi, khi nghe gà gáy quanh làng thì biết là nửa đêm giờ Tý, chủ tế thắp hương khấn vái Bản thổ thị chi thần. Sau đó lễ mật bắt đầu: Trong miếu chỉ còn lại ông chủ tế với một đôi nam nữ thanh niên. Chủ tế đưa cho nam một chiếc dùi gỗ hình dương vật (nõ), trao cho nữ một chiếc mu rùa hình âm vật (nường). Đôi trai gái sau câu xướng của chủ tế " Linh tinh tình phộc " thì dướn người lên, giơ cao nõ và nường, miệng hát rồi chọc mạnh vào nhau cho khớp:

"Bên ấy có nứng cùng chăng

Bên này lủng lẳng như giằng cối xay"

Nghi lễ này diễn ra ba lần, nếu cả ba lần đâm đều trúng thì năm đó làm ăn may mắn. Sau đó chủ tế dẫn các đôi trai gái chạy quanh miếu ba lần khua chiêng gõ trống ầm ĩ để xua đuổi tà ma, rồi mọi người rước nồi hương từ miếu về điếm Trám.

ở nghi lễ này, theo các cụ kể lại thì có tục "tháo khoán”, khi trong miếu đang làm lễ mật thì trai gái bên ngoài hát giao duyên, khi lễ mật hoàn tất, chiêng trống nổi lên "Ông từ dẫn trai gái cầm nõ - nường ở trong miếu ra, chạy quanh miếu 3 vòng, vừa chạy vừa hú. Trai

gái ngoài miếu cùng chạy sau đó được tự do đùa nghịch và có thể đi đến giao phối gọi là "tháo khoán” [36, tr.200].

+ Rước lúa thần:

Sáng ngày 12 là tổ chức rước lúa thần. Từ vụ gặt mùa năm trước ông chủ tế phải cất giữ cẩn thận một khóm lúa tốt, bông dài hột nở và một ngọn mía mập. Từ chiều tối hôm trước, bát hương được rước từ miếu ra điếm Trám cúng lễ, lễ vật có xôi gà, hoa quả. Sáng 12 là lễ rước lúa thần. Đám rước lúa được diễu đi quanh làng rồi về miếu Trò.Trong đám, đi đầu là cờ, bát âm rồi đến kiệu bát cống, trên để chiếc bình lớn cắm khóm lúa và ngọn mía, phía sau có che lọng. Sau kiệu là các cụ già và dân chúng. Trong đám rước có phường Trám (phường diễn trò tứ dân) vừa đi vừa làm trò rất vui nhộn. Đám rước tưng bừng đi quanh khắp đồng ruộng, thôn xóm rồi về miếu Trò. Sau một hồi trống dõng dạc, ông chủ tế đặt bông lúa lên bàn thờ rồi nổi hiệu trống chầu 3 hồi 9 tiếng, bắt đầu cho trò diễn tứ dân.

+ Trò tứ dân:

Cả phường Trám chia làm 2 mảnh : mảnh trên và mảnh dưới, cả 2 mảnh đều làm trò nhưng trách nhiệm chính cho mỗi năm là mảnh đăng cai, năm nay mảnh này, sang năm mảnh khác.

Mảnh được đăng cai cử ra một số thanh niên nam nữ, trung lão, trung niên ở bất cứ giới nào, ngôi thứ nào miễn là dân phường Trám và có năng khiếu đối đáp, nghệ thuật. Vì vậy hàng năm số người diễn gần như chuyên nghiệp, song vẫn có thể thay và bổ sung người mới. Khi nghe tiếng trống báo hiệu, đám diễn trò đi từ nhà ông trùm trò ra sân miếu và bắt đầu trò diễn. Mở đầu là người phát loa vừa đi vừa vung loa hô to: Loa loa loa, xin mời bà con hàng sứ giãn ra để phường ta làm trò". Tiếp theo đến vai "vua Thuấn cày voi". Người cầm biển giơ cao chiếc biển dán giấy đỏ viết 4 chữ Hán: "Tứ dân chi nghiệp". Rồi đến nối nhau là các vai: người cầm đàn chanh, người đi cày (có một người nữa giả làm trâu), những cô thợ cấy, người đi câu, người thợ mộc và thợ xẻ, người đánh lờ, người kéo sợi, người bán xuân, thầy đồ và các học trò. Đó là các vài chính của trò Trám. Ngoài ra, có năm thêm vai người bắt ếch lươn, người bán thịt, thợ cạo, thầy địa lý...Có năm nông ra trước, có năm sĩ ra trước. Các vai cầm những đạo cụ biểu tượng nghề của mình một cách ngộ nghĩnh, vừa ra diễn trò vui nhộn, vừa hát những câu hát gây cười.

Xem tất cả 134 trang.

Ngày đăng: 17/12/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí