Dẫu sao khám phá của những người đi trước cũng trở thành cơ sở, gợi ý cho chúng tôi tiếp tục tìm hiểu về thể loại này cũng như làm sáng rõ những nét tiêu biểu và đặc trưng của truyện ngắn trữ tình Xuân Diệu trong dòng truyện ngắn trữ tình 1930-1945.
1.1.2 Dòng truyện ngắn trữ tình 1930-1945 trong tiến trình văn học Việt Nam hiện đại
1.1.2.1 Vị trí, đặc trưng của dòng truyện ngắn trữ tình
Truyện ngắn hiện đại nói chung và truyện ngắn giai đoạn 1930 – 1945 nói riêng đã phát triển thành nhiều dòng, nhiều khuynh hướng văn học. Khảo sát về truyện ngắn giai đoạn này ta thấy có ba khuynh hướng (loại hình) văn học tiêu biểu mà tên gọi chung của chúng chỉ có ý nghĩa tương đối đã được các nhà nghiên cứu định danh, đó là: truyện ngắn – kịch hóa, truyện ngắn – trữ tình hóa và truyện ngắn tiểu thuyểt hóa.
Trong đó, truyện ngắn – kịch hóa, là tác phẩm tự sự kể lại câu chuyện mà nòng cốt là một hành động của nhân vật đang tự diễn ra trong môi trường xung đột giàu kịch tính. Đại diện tiêu biểu là Nguyễn Công Hoan.
Khuynh hướng thứ hai là truyện ngắn – tiểu thuyết hóa, là tác phẩm tự sự cỡ nhỏ nhưng có cấu trúc “phức hợp”. Truyện thường tập trung vào việc phân tích, lý giải quá trình đời sống, tính cách và thân phận con người. Đại diện là Nam Cao.
Và khuynh hướng thứ ba là truyện ngắn – trữ tình hóa, là tác phẩm tự sự thuật lại một câu chuyện để tạo ra ấn tượng về thế giới đang tồn tại trong tâm tưởng con người. Đại diện cho khuynh hướng này là những tên tuổi đã từng được định danh như: Thạch Lam, Thanh Tịnh, Hồ Dzếnh…
Trong phạm vi luận văn này, chúng tôi chủ yếu đi sâu nghiên cứu truyện ngắn trữ tình giai đoạn 1930 – 1945, tìm hiểu những đặc trưng của nó rồi soi vào tác phẩm cụ thể, đặc biệt là qua sáng tác của Xuân Diệu để làm rõ văn xuôi của ông trong dòng truyện ngắn trữ tình 1930-1945.
Về vị trí của dòng truyện ngắn trữ tình, chúng tôi đồng tình với ý kiến của Ts Phạm Thị Thu Hương khi đưa ra nhận định rất đúng đắn: “Nếu xét trong lịch sử của dòng truyện ngắn trữ tình thì có thể nhận thấy nó chỉ thực sự phát triển khi văn chương Tự Lực văn đoàn và thơ của phong trào Thơ mới đạt đến những thành tựu rực rỡ. Phần lớn truyện ngắn trữ tình thường xuất hiện sau 1936, và từ 1936 – 1945 truyện ngắn trữ tình mới thực sự trở thành một dòng với số lượng tác giả, tác phẩm đáng kể và trong phong cách đã có sự định hình” [27,160]. Về đóng góp đặc sắc của dòng truyện ngắn trữ tình, theo tác giả luận án “Truyện ngắn trữ tình đã đưa vào văn xuôi nghệ thuật Việt Nam một chất thơ man mác, bàng bạc rất riêng. Truyện ngắn trữ tình mang lại cho người đọc một cảm giác nhẹ nhàng, sâu lắng sau những tràn trề hiện thực của các nhà văn hiện thực” [27]
Như vậy có thể thấy, văn chương của Tự lực văn đoàn và Thơ Mới đạt đến những thành tựu rực rỡ đã tạo đà cho truyện ngắn trữ tình phát triển mà tác giả tiêu biểu nhất cho dòng truyện này chính là Thạch Lam. Từ đó có thể nhìn nhận mạch truyện này khởi nguồn và đạt được những thành tựu đặc sắc trong giai đoạn 1930-1945
Có thể bạn quan tâm!
- Xuân Diệu trong dòng truyện ngắn trữ tình 1930 - 1945 - 1
- Xuân Diệu trong dòng truyện ngắn trữ tình 1930 - 1945 - 2
- Đôi Nét Về Tiểu Sử Của Xuân Diệu
- Người Nghệ Sĩ Là Người Có Tâm Hồn Thành Thật, Trái Tim Đa Tình
- Phản Ánh Thiên Nhiên, Cảnh Vật Tươi Đẹp, Tràn Đầy Sức Sống
Xem toàn bộ 134 trang tài liệu này.
Đến giai đoạn 1945-1955, truyện ngắn trữ tình có phần chững lại do giai đoạn này truyện ngắn theo phong cách sử thi và thể loại kí phát triển mạnh hơn.Từ 1955-1975 và những năm tám mươi của thế kỉ XX, thể loại truyện ngắn nghiêng sang truyện ngắn thơ.
Cuối thế kỉ XX và những năm đầu thế kỉ XXI, thể loại truyện ngắn nói chung và dòng truyện ngắn trữ tình có xu hướng phát triển mạnh trở lại với những tên tuổi như Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Bản, Linh Vang, Mai Linh và đặc biệt là cây bút trẻ Nguyễn Ngọc Tư.
Nói tóm lại, dòng truyện ngắn trữ tình ngày càng khẳng định được vị thế và vai trò của mình trong dòng truyện ngắn Việt Nam nói riêng và làm phong phú thêm các thể loại văn học nói chung. Chỗ đứng của truyện ngắn trữ tình đang ngày càng củng cố trong lòng bạn đọc.
Như ở trên đã nói, các công trình nghiên cứu đã chứng minh trong văn học Việt Nam có ba khuynh hướng truyện ngắn tiêu biểu. Điều này cho thấy dòng truyện ngắn trữ tình có một vị trí ngang bằng và độc lập với các dòng truyện ngắn khác. Với những đóng góp không nhỏ, truyện ngắn trữ tình có một vị trí quan trọng trong dòng chảy của truyện ngắn Việt Nam hiện đại và tạo nên sự đa diện cho bộ mặt văn học dân tộc. Tuy các công trình có những cách tiếp cận, lý giải khác nhau nhưng chúng tôi thấy vẫn có sự thống nhất trong việc nêu lên những đặc điểm cơ bản của truyện ngắn trữ tình với đặc trưng nổi bật như:
- Truyện ngắn trữ tình gần với thơ, mang đậm chất thơ.
- Truyện ngắn trữ tình, tính chủ quan của người nghệ sỹ sáng tạo cũng được thể hiện tương đối đậm nét.
- Về bút pháp nghệ thuật: hướng nội, tuân theo nguyên tắc miêu tả và xây dựng nhân vật, thường chú trọng miêu tả đời sống bên trong – thế giới nội tâm, đặc biệt là thế giới của cảm xúc, cảm giác với những rung động tinh vi nhất
- Nhân vật truyện ngắn trữ tình thường không được tập trung khắc họa thành những tính cách điển hình mà chủ yếu được khám phá, tái hiện thế giới nội tâm với những cảm giác.
- Về cốt truyện: Truyện ngắn trữ tình thường phi cốt truyện hoặc chỉ có cốt truyện tâm lý giàu sức gợi.
- Kiểu kết cấu truyện: theo nguyên tắc đối lập (ánh sáng – bóng tối, buồn – vui, quá khứ - hiện đại, làng (nông thôn) – phố (thành thị), ấm – lạnh…) có kết cấu gần với cấu tứ của thơ trữ tình.
- Ngôn ngữ: câu văn mượt mà, giàu hình ảnh, đậm chất nhạc, chất thơ.
Với những đặc trưng nổi bật như trên, chúng ta có thể thấy với sự góp mặt của mình, dòng truyện ngắn trữ tình đã tự tạo ra dòng chảy riêng của mình và làm phong phú thêm cho thể loại truyện ngắn hiện đại Việt Nam,
đồng thời đóng góp những gương mặt tiêu biểu, các nhà văn tài năng cho nền văn học dân tộc.
1.1.2.2 Một vài gương mặt tiêu biểu tạo nên dòng truyện ngắn trữ tình Việt Nam 1930-1945
Thạch Lam :
Thạch Lam (sinh năm 1910, mất năm 1942), tên thật là Nguyễn Tường Vinh, sau đổi thành Nguyễn Tường Lân là người khởi xướng một cách không chính thức đồng thời cũng là đại điện tiêu biểu của dòng truyện ngắn trữ tình 1930-1945. Truyện của Thạch Lam đem đến cho văn xuôi đương thời một cách cảm thụ tinh vi, bình dị, mới mẻ, đầy khám phá đối với thế giới nội tâm của con người. Ông đặc biệt tinh tế khi phát hiện, phân tích những biến thái nhỏ nhất của tâm hồn. Thạch Lam thường khai thác chất thơ trong đời sống hằng ngày. Ông quan tâm, phơi bày đời sống nội tâm tinh tế, phong phú của nhân vật hơn là những biến cố, sự kiện bề ngoài hay những xung đột giàu kịch tính. Truyện của ông thường mang yếu tố phi cốt truyện, loại truyện không có truyện. Hai đứa trẻ không hề có hàng động phát triển xung đột, mà chỉ toát lên một tâm trạng, một không khí. Nó chỉ là câu chuyện kể lại cái cảnh hai chị em ngồi trong một ngôi hàng tạp hoá nghèo nàn trong một buổi tối như bao buổi tối khác. Buổi tối – bầu trời và những liên tưởng, những kỉ niệm. Ở đây, người đọc không chỉ cảm nhận được tâm hồn đầy lãng mạn với những ước mơ đẹp đẽ của hai đứa bé nghèo ở một cái gác xép nhỏ mà còn cảm thấy hồn quê hương, đất nước toả ra từ cái không gian thanh bình thấm đẫm chất thơ của những buổi chiều “ êm như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào”, những buổi tối có “vòm trời hàng ngàn ngôi sao ganh nhau lấp lánh, lẫn với vệt sáng của những con đom đóm bay là trên mặt đất hay len vào những cành cây” và những đêm mùa hạ êm ả như nhung và thoảng qua gió mát”… Sở trường của Thạch Lam trong truyện ngắn là đưa ra một biến thái về tâm hồn, một chuyển hướng tâm lý. Từ buồn ra vui, từ giận ra thương, từ lãnh đạm ra tha thiết, từ yêu ra ghét, hay ngược lại. Một anh chàng ăn chơi trác táng về nhà khuya mệt mỏi chán
chường, sáng dậy bỗng thấy vui vẻ nhẹ nhàng trước cảnh trời ngày mai tươi mát và hình ảnh bà mẹ già trìu mến phúc hậu (Buổi sớm, Nắng trong vườn). Những biến đổi tình cảm như trên làm phần then chốt ở Cơn giận, Sợi tóc, Tình xưa, Bên kia sông...Nhà phê bình Phong Lê nhận xét “Ở thế giới nghệ thuật truyện ngắn Thạch Lam, tất cả đều hiu hiu, đạm đạm, không có sự chói gắt, không có những vang động mạnh, nhưng lại gợi bao ám ảnh về số phận con người. Những truyện hay của Thạch Lam, thường có nhiều bóng tối: không phải cái “tối như mực”, mà là cái tối hoàng hôn, của ánh ngày tàn” [8,92]. Thời gian nghệ thuật của ông là hiện thực được kéo lùi về quá khứ (Dưới bóng hoàng lan, Hai đứa trẻ). Không gian nghệ thuật của ông thường là các phố huyện, chợ huyện phố ga (Cô hàng xén, Tối ba mươi, Nhà mẹ Lê). Nhân vật của ông phần nhiều không rõ tính cách, chỉ bộc lộ những tâm trạng, những nét tâm lý. Đó là những con người nội tâm, có tâm hồn tinh tế, thường tự cảm về mình, giàu xúc cảm và ít hoạt động. Truyện của ông giống như những bài thơ trữ tình, mà ở đó thiên nhiên được miêu tả không chỉ qua thị giác, thính giác mà còn ở cảm giác: “…Trên con đường gạch Bát Tràng rêu phủ, những vòng ánh sáng lọt qua vòm cây xuống nhảy múa theo chiều gió. Một mùi lá tươi non phảng phất trong không khí… Yên tĩnh quá, không một tiếng động nhỏ ở trong căn vườn, tựa như bao nhiêu sự ồn ào ở ngoài kia đều ngừng lại trên bực cửa…bóng tối dịu và man mát loáng qua những màu sắc rực rỡ chàng đem ở ngoài trời vào” (Dưới bóng hoàng lan); “Ở ngoài, trăng rằm vằng mặt sân và các lá lan đen sẫm lấp lánh ánh trăng cong” (Tình Xưa)...,và những trạng thái thay đổi thật tinh tế trong trâm hồn con người: “ Có cái gì dịu ngọt chăng tơ ở đâu đây, khiến chàng vướng phải” (Dưới bóng hoàng lan); “ đôi mắt chị bóng tối ngập đầy dần và cái buồn của buổi chiều quê thấm thía vào tâm hồn ngây thơ của cô. Liên không hiểu tại sao, những chị thấy lòng buồn man mác trước giờ khắc của ngày tàn” (Tình xưa)…, với một giọng văn rất riêng: thủ thỉ, nhẹ nhàng, đôi khi gần như thì thầm: “chúng tôi nghe ngóng cái yên lặng của buổi trưa, hình như theo dòng nước trôi ánh nắng đi xa” (Nắng trong vườn); “Gió thơm nhẹ và thoang thoảng tới bông
hồng nhung thẫm tan vào đêm tối… cánh hồng nhung đen thẫm…đẫm một mùi hương nồng và ân ái”(Đêm sáng trăng)…Với những truyện ngắn mang một phong cách độc đáo, riêng biệt, Thạch Lam quả đã có đóng góp rất lớn cho sự phát triển của truyện ngắn Việt Nam và đặc biệt là ông đã để lại những ảnh hưởng rất rõ rệt cho những nhà văn khác như Thanh Tịnh, Hồ Dzếnh , Đỗ Tốn, Ngọc Giao, Thanh Châu…
Thanh Tịnh:
Thanh Tịnh vốn là người con xứ Huế vì thế lòng ông sâu nặng với quê hương cố đô nên sự nghiệp văn chương của ông mang nặng tâm hồn Huế. Xứ Huế là xứ mơ màng, xứ thơ nên truyện Thanh Tịnh mang đầy chất thơ, cũng vì thế những tập truyện ngắn: Quê mẹ (1941), Hai chị em (1942), Ngậm cải tìm trầm (1943) phần lớn viết về Huế, nơi ông sinh ra và lớn lên đầy kỉ niệm. “… Những truyện ngắn Tình thư, Amculixe mang đầy tính cách Huế và xứng đáng là người công dân, một người con yêu của xứ Huế mộng mơ…[55;56].
Thạch Lam trong bài đề tựa về tập truyện Quê mẹ năm 1941 cũng coi Thanh Tịnh là nhà văn xứ Huế và ông cũng nêu lên sự chi phối mạnh mẽ của con người thi sĩ đối với cái nhìn cuộc sống. Thạch Lam đã có những cái nhìn nhận xét tinh tế, xác đáng về văn xuôi Thanh Tịnh: “ Thanh Tịnh có lẽ là nhà văn đầu tiên ở miền Trung đã trình bày mối dây liên lạc nối ông với đồng nội, quê hương, những dây liên lạc nhẹ như tơ hồng ngày thu, nhưng không kém phần vương vít và quyến luyến có lẽ linh hồn người ở nhiều nơi có nhiều màu sắc khác nhưng mà tác giả chỉ tả cái vẻ êm ả và nên thơ. Tâm hồn ưa thích cái gì vừa đẹp đẽ vừa nhè nhẹ, tác giả không lách đi sâu, nhưng dừng lại ở một làn gió, ở một cái thoảng hương thơm hoa cỏ bốn mùa [35,348]. Đặc biệt, Thạch Lam tìm thấy trong Quê mẹ một lòng yêu quê hương xứ sở đằm thắm thiết tha của Thanh Tịnh, một thứ tình yêu mộc mạc “pha chút buồn Á Đông”. Tất cả đều được Thanh Tịnh kể lại bằng một giọng điệu êm ái nhẹ nhàng, giọng điệu mà Thạch Lam so sánh với tiếng sáo nhỏ và thanh…“ông đã muốn là người mục đồng ngồi dưới bóng tre thổi sáo để ca hát vẻ đẹp của đời thôn quê” [34,350].
Trước 1945, Thanh Tịnh vừa làm thơ vừa viết văn. Trong cuốn Thi nhân Việt Nam (1942), Hoài Thanh và Hoài Chân chọn và giới thiệu hai bài thơ của tác giả này là Mòn mỏi và Tơ trời với tơ lòng. Nhưng người đọc nhớ tới Thanh Tịnh và yêu mến ông chủ yếu qua truyện hơn là qua thơ. Tập truyện ngắn Quê mẹ (1941) đủ đưa ông vào vị trí những tác giả viết truyện ngắn nổi tiếng giai đoạn 1930- 1945. Trong số các nhà văn truyện ngắn theo khuynh hướng trữ tình thì có lẽ Thanh Tịnh là người gần gũi với Thạch Lam nhất. Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn hiện đại đã xếp Thanh Tịnh vào dòng tiểu thuyết tình cảm với Thạch Lam và ông nhận thấy “Thứ tình cảm ở Thạch Lam là thứ tình êm dịu nhẹ nhàng, thứ tình cảm của người dân quê hồn hậu trung kỳ diễn ra trong khung cảnh sông nước đồng ruộng…” Theo Vũ Ngọc Phan, bởi vì tác giả của tập Quê mẹ là một thi sĩ nên “Cái tình quê trong hầu hết các truyện ở tập Quê mẹ bao giờ cũng rung rinh lai láng trong đêm trăng rằm, trên những mặt sông còn im hay trong những buổi chiều tà gió hiu hắt thổi. Tình trăng nước đó là tất cả những cái làm tài liệu cho Thanh Tịnh để xây dựng nên truyện trong tập Quê mẹ [52;1106].
Nhân vật của Thanh Tịnh, dù là anh trí thức tiểu tư sản, người dân quê, cô thôn nữ, người lái đò thì hầu như đều đi về gắn bó với không gian làng Mỹ Lý. Trong cái không gian quen thuộc ấy, ngòi bút tinh tế của ông hướng tới khám phá, phát hiện những vẻ đẹp bình dị trong cuộc sống như tình yêu, tình bạn, tình vợ chồng, tình cha con, tình cảm gắn bó của con người với quê hương. Tất cả đều được ông trình bày một cách nhẹ nhàng, thanh thoát và đằm thắm.
Hồ Dzếnh :
Rất gần gũi và bị ảnh hưởng về phong cách viết từ Thạch Lam là nhà văn mang trong mình hai dòng máu Việt – Hoa, nhà văn Hồ Dzếnh. Hồ Dzếnh tên thật là Hà Triệu Anh, sinh năm 1916, mất năm 1991. Truyện ngắn của Hồ Dzếnh là nỗi đau và niềm cảm thương, cả hai đều vô hạn, ẩn chứa, tiềm tàng như hai con suối được khơi lên với một tiết tấu khi dạt dào, lúc thấm thía, ngân nga và không lúc nào ngừng nghỉ. Hai con suối ấy đều là hoài
niệm, từ cái nhìn ngược lại phía sau, phía quá vãng của chủ thể sáng tạo – mà ở đây cũng là chủ thể trữ tình. Vì vậy, bao giờ cũng bâng khuâng, man mác. Tuy viết không nhiều, nhưng với tập truyện ngắn Chân trời cũ , Hồ Dzếnh đã để lại nhiều dư vị đặc biệt trong lòng độc giả bởi tấm lòng nhân hậu, giàu thương cảm, ở sự gắn bó với quê hương, và ở ngòi bút trữ tình thấm đượm, chan chứa chất thơ. Mỗi truyện ngắn ở đây là một cảnh đời của người thân trong gia đình hoặc người trong làng xóm của tác giả lúc tuổi thơ, cũng là một mảnh tâm hồn của nhà văn cất giữ trong đó. Tác phẩm có chất thơ của hoài niệm buồn thương, cũng là chất thơ toát lên từ những cuộc đời vất vả đau thương của con người Việt Nam, quê ngoại mà tác giả gắn bó bằng cả máu thịt và tâm hồn mình. Ở Hồ Dzếnh, tình cảm gắn bó tha thiết đối với đất nước Việt Nam, “ dải đất súc tích những tinh hoa của văn chương, những công trạng lịch sử” (Chị Yên), hoà với lòng yêu thương, quý trọng vô hạn đối với người mẹ, người chị nuôi, “ những người đàn bà Việt Nam đã làm nên đất nước này, người đàn bà chỉ biết có chịu khó vì chồng con, không bao giờ một lời phàn nàn hay oán giận, mà cái ước mong sung sướng nhất là cứ được hi sinh mãi”(Thạch Lam - Tựa Chân trời cũ). Văn Hồ Dzếnh thường đượm buồn, song không phải thứ buồn mà thi vị ngọt ngào mà là nỗi buồn của chính những “ số phận bắt buộc phải buồn rầu”, “ người nào cũng mang một tâm hồn đau khổ”. Kể và cuộc đời đau khổ của những người thân yêu đó, Hồ Dzếnh thường day dứt, xót xa. Văn Hồ Dzếnh giàu cảm xúc, ý vị, tuy mực thước, trau chuốt, mà đầy lắng đọng. Đó là chất giọng tâm tình cử nhẩn nha mà khắc họa, mà lưu giữ trong tâm trí người đọc bao cung bậc thiết tha, buồn vui, yêu ghét…Văn ông âm vang một nhạc luật, một tiết tấu khi tha thiết, khi hùng hồn, cuốn người đọc cùng đi bằng một thứ ma lực vô hình khó lòng cưỡng nổi. Thiên nhiên trong truyện ngắn Hồ Dzếnh thật đa dạng trong sự liên tưởng đầy chất thơ: “ Nắng tắt dần dần chỉ còn ánh vàng pha sắc tím. Hoàng hôn ở đây không như hoàng hôn ở Giang Tây, Hồ Bắc, hoàng hôn ở đây ưu hoài như một chinh phụ nhớ chồng” (Ngày gặp gỡ). Hồ Dzếnh có một khả năng diễn tả tâm trạng mơ hồ rất tốt, nhiều đoạn văn của ông đầy sự lung linh,