chung. Mối liên hệ giáo dục với cha mẹ HS càng chặt chẽ, càng thường xuyên, càng cụ thể thì càng có giá trị.
Phương pháp giáo dục cá biệt: Điều tra nắm vững đặc điểm của các đối tượng giáo dục, nắm vững tình hình kinh tế, văn hóa, giáo dục ở địa phương để phân loại và có các tác động thích hợp. Sự phân loại HS được tiến hành theo các mặt: học lực, hạnh kiểm, sức khỏe, hứng thú, sở trường, năng khiếu… Trên cơ sở phân loại HS, GVCN biết và có kế hoạch giáo dục HS yếu kém về mặt văn hóa, đạo đức, HS có năng khiếu, có thành tích cao trong học tập và tu dưỡng.
Phương pháp tổ chức sinh hoạt tập thể: Đưa HS vào các tập thể đoàn, có kỉ luật chặt chẽ, có nội quy, điều lệ. Sống trong một tổ chức mỗi HS tự xác định cho mình quyền lợi và nghĩa vụ và tu dưỡng, phấn đấu vì mục tiêu, lí tưởng chung.
Phương pháp tổ chức giữa các hoạt động: Tổ chức cho HS hoạt động với nhiều hình thức và nội dung phong phú, trước hết là hoạt động học tập, sau đó là các hoạt động văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao, tham quan du lịch, vui chơi giải trí… ,nội dung và hình thức hoạt động càng phong phú thì càng hấp dẫn đối với HS và càng đem lại giá trị giáo dục cao.
1.3.3. Nội dung hoạt động của giáo viên chủ nhiệm lớp ở trường trung học phổ thông
1.3.3.1. Tìm hiểu và xây dựng hồ sơ chủ nhiệm
Đối với GVCN, xây dựng hồ sơ HS là một trong những nhiệm vụ quan trọng, bắt buộc để thực hiện tốt công tác CN lớp. Hồ sơ HS là toàn bộ thông tin, tư liệu có liên quan đến HS, được GVCN tổ chức thu thập, phân tích, xử lý và tập hợp lại một cách có hệ thống, làm cơ sở để theo dõi quá trình phát triển của HS, đồng thời để tác động giáo dục đến HS một cách phù hợp. Tất cả HS đều phải có hồ sơ không phải chỉ những HS cá biệt mới cần có hồ sơ như thực tế nhiều nơi hiện nay.
Những công việc GVCN phải làm khi xây dựng hồ sơ HS đó là tìm hiểu về hoàn cảnh gia đình hiện tại của HS và môi trường mà HS được sinh ra và lớn lên. Tìm hiểu về bản thân HS với đầy đủ các khía cạnh trong sự phát triển về mặt tâm lý, thể chất của em, những mâu thuẫn nảy sinh. Dự đoán khuynh hướng phát triển trong
tương lai. GVCN cần hiểu được những suy nghĩ chưa đúng dẫn đến hành vi tiêu cực của HS để tư vấn, làm thay đổi những nhận thức và niềm tin sai lệch của HS, giúp các em thay đổi hành vi, đồng thời cũng cần nắm được những nhu cầu, mong muốn tích cực của HS để khuyến khích các em.
Trong xây dựng hồ sơ HS, việc thu thập xử lý và đánh giá thông tin có liên quan đến HS là vô cùng quan trọng. Có nhiều cách khác nhau để thu thập thông tin cho việc xây dựng hồ sơ HS như sử dụng các bản điều tra, sử dụng các bản trắc nghiệm đơn giản, trò chuyện với HS trước và sau buổi học, cùng tham gia các hoạt động với HS, tổ chức cho HS viết bài luận theo chủ đề tự do, tìm hiểu thông qua các hoạt động NGLL, văn nghệ, thể dục thể thao, ngoại khóa, tìm hiểu HS thông qua các đối tượng khác như là cha mẹ, giáo viên bộ môn.
Có thể bạn quan tâm!
- Quản lí hoạt động của giáo viên chủ nhiệm ở các trường trung học phổ thông huyện Vũng Liêm tỉnh Vĩnh Long - 2
- Cơ Sở Lý Luận Về Quản Lí Hoạt Động Của Giáo Viên Chủ Nhiệm.
- Khái Niệm Quản Lí Hoạt Động Của Giáo Viên Chủ Nhiệm Lớp
- Nội Dung Quản Lí Hoạt Động Củagiáo Viên Chủ Nhiệm Lớp Ở Trường Trung Học Phổ Thông
- Chính Sách, Chế Độ Đối Với Giáo Viên Chủ Nhiệm Lớp
- Thực Trạng Về Hoạt Động Của Giáo Viên Chủ Nhiệm Ở Các Trường Thpt Huyện Vũng Liêm, Tỉnh Vĩnh Long
Xem toàn bộ 132 trang tài liệu này.
1.3.3.2. Xây dựng kế hoạch chủ nhiệm
Với vai trò là người lãnh đạo và QL lớp học, GVCN cần phải hiểu rõ vị trí, vai trò, tầm quan trọng của việc lập kế hoạch CN lớp. Nếu xây dựng được kế hoạch CN tốt, GVCN cùng lớp sẽ xác định được rõ định hướng tương lai cần đạt của lớp, đề ra được những hoạt động ưu tiên và tập trung công việc vào những ưu tiên này. Từ đó xây dựng tổ, nhóm HS cùng tiến bộ, tích cực, thân thiện, nâng cao tinh thần hợp tác với các lực lượng giáo dục khác như giáo viên bộ môn, Đoàn Thanh niên, cha mẹ HS, các tổ chức khác ngoài nhà trường để được mục tiêu cơ bản là giúp HS phát triển toàn diện.
Kế hoạch CN lớp là chương trình hành động trong tương lai của lớp CN, nhằm xác định một cách chính xác lớp học của chúng ta muốn đi đến đâu và cần phải làm gì, làm như thế nào để đạt được điều đó.
Kế hoạch CN được xây dựng cho một năm học, trong kế hoạch năm học có kế hoạch công tác từng tháng, từng tuần. Ngoài ra, còn có kế hoạch mục tiêu hoặc kế hoạch chuyên môn của lớp CN.
Cấu trúc của kế hoạch CN gồm những phần như:
Đặc điểm tình hình, khó khăn, thuận lợi, cơ hội, thách thức
Phương hướng nhiệm vụ mục tiêu chỉ tiêu và các danh hiệu phấn đấu, những yêu cầu đạt được trong năm học về đạo đức, văn hóa, lao động hướng nghiệp, giáo dục toàn diện.
Các biện pháp chính, chỉnh kế hoạch, rút kinh nghiệm, điều chỉnh, sơ kết học kỳ, tổng kết năm học.
Quy trình các bước xây dựng kế hoạch: Phân tích môi trường (điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội, thách thức); xây dựng định hướng chiến lược phát triển; xác định mục tiêu; xác định các giải pháp; xác định các đề xuất tổ chức thực hiện.
Kế hoạch CN được GVCN xây dựng xong trước ngày 5 tháng 9 hàng năm và trình HT duyệt trước khi thực hiện. Trong trường hợp có sự thay đổi phát sinh GVCN cập nhật kế hoạch năm và trình cho HT phê duyệt.
1.3.3.3. Giáo dục kỷ luật tích cực
Trong quá trình chỉ đạo và tổ chức thực hiện kế hoạch, GVCN cần thay đổi cách tiếp cận truyền thống sang cách tiếp cận tích cực là xây dựng và sử dụng kỷ luật tích cực trong quá trình triển khai thực hiện kế hoạch dựa trên nguyên tắc vì lợi ích tốt nhất của HS, không làm tổn thương đến thể xác và tinh thần của các em, có sự thỏa thuận giữa giáo viên và HS, phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của HS.
Những lợi ích của việc sử dụng các biện pháp giáo dục tích cực đối với HS là HS có nhiều cơ hội chia sẻ bày tỏ, được mọi người quan tâm, tôn trọng và lắng nghe ý kiến không mất niềm tin. Tích cực, chủ động trong các hoạt động. Tự tin trước mọi người, khả năng của HS được phát huy. HS nhận ra lỗi của mình, cảm thấy hòa nhập với tập thể. Được sự quan tâm của giáo viên, tiếp thu bài tốt hơn, vui vẻ đến lớp, thích học hơn, gần gũi với bạn bè thầy cô hơn. Đối với giáo viên sẽ giảm được áp lực QL lớp, do HS hiểu và tự giác chấp hành kỷ luật. Từ đó giáo viên tạo ra sự tự tin tưởng nơi HS, được HS tôn trọng và quý mến, Xây dựng được mối quan hệ thân thiện giữa thầy trò, đoàn kết thống nhất cao trong lớp học, được sự đồng tình ủng hộ của phía gia đình và xã hội. Đối với nhà trường có môi trường sư phạm thân thiện, an toàn, giảm thiểu các tệ nạn xã hội, nạn bạo hành bạo lực
1.3.3.4. Xây dựng tập thể học sinh và môi trường lớp học thân thiện
GVCN được giao QL lớp, chịu trách nhiệm về kết quả giáo dục của cả lớp, GVCN không thể giáo dục riêng lẻ từng HS mà phải tổ chức xây dựng lớp thành một tập thể đoàn kết, thân thiện, biết tự QL. Chính vì vậy giáo dục trong tập thể, thông qua tập thể, bằng tập thể và phương pháp tác động song song đã trở thành một nguyên tắc tổ chức giáo dục hiện nay.
Môi trường học tập thân thiện trong đó các mối quan hệ giữa giáo viên và HS giữa HS với nhau tuân thủ các nguyên tắc dân chủ, tôn trọng, có không khí thân thiện nhằm tạo ra môi trường cảm thông, chia sẻ, hợp tác trong lớp học là yếu tố không thể thiếu để nâng cao chất lượng hiệu quả giáo dục.
Những nội dung xây dựng tập thể và môi trường học tập thân thiện đó là tổ chức bộ máy tự quản, tăng cường sự tham gia của HS trong việc xây dựng nội quy lớp, khích lệ mọi thành viên trong lớp luôn suy nghĩ về trách nhiệm của bản thân đối với tập thể và có những hành động vì sự phát triển của tập thể lớp, xây dựng tập thể lành mạnh, tổ chức các hoạt động và giao lưu tập thể nhằm củng cố và phát triển tập thể, phát hiện kịp thời và ngăn ngừa những xung đột trong tập thể.
Xây dựng đội ngũ cán bộ lớp và bồi dưỡng các phần tử tích cực: Đó là những HS tự giác, quyết tâm thực hiện tốt những yêu cầu do GVCN đặt ra. GVCN cần kịp thời phát hiện, lựa chọn một cách chính xác những phần tử tích cực và bồi dưỡng thành lực lượng nòng cốt. Việc xây dựng đội ngũ cán bộ lớp và bồi dưỡng những phần tử tích cực có vai trò quan trọng trong công tác xây dựng tập thể HS.
Xây dựng kỷ luật tập thể: Kỷ luật tập thể biểu hiện qua việc chấp hành những qui định chung, là thói quen quan tâm và tôn trọng của các thành viên đối với các vấn đề tập thể. Kỷ luật không phải là sự cưỡng bức mà chính là kết quả của quá trình giáo dục ý thức ở HS.
1.3.3.5. Giáo dục học sinh cá biệt, duy trì sĩ số, chống bỏ học
Trong tập thể luôn tồn tại những HS dễ giáo dục và những HS khó giáo dục. Những HS khó giáo dục là những em HS có những thái độ, hành vi không phù hợp với giá trị, nội quy của lớp, không thực hiện tròn bổn phận và trách nhiệm của người HS, hoặc thiếu văn hóa, đạo đức trong quan hệ ứng xử với mọi người.
Các chuyên gia tâm lý và những người nghiên cứu về hành vi của HS ở trường học kết luận rằng những vấn đề về thái độ và cách ứng xử bất thường của HS phần lớn bắt nguồn từ những vấn đề thực tế mà các em phải đối mặt trong cuộc sống, đó là vấn đề có liên quan đến hoàn cảnh sống của các em, có thể các em gặp các vấn đề trong gia đình hoặc trong quan hệ với bạn bè, thầy cô hoặc những trở ngại khác. Một mặt, mọi người lại đối xử khác, thiếu quan tâm, bỏ mặt, không lắng nghe, thiếu cảm thông và tha thứ của mọi người. Làm cho các em thấy cô đơn, chán nản về năng lực của mình mất dần động cơ học tập.
Trách nhiệm của GVCN là không để còn những HS có hành vi không phù hợp với những quy định chung của nhà trường, của lớp và cộng đồng. Vì vậy, GVCN có trách nhiệm phối hợp với các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường mà trước hết là với tập thể lớp giúp các em này điều chỉnh, thay đổi thái độ, hành vi của mình để các em có tương lai tốt đẹp hơn.
Bên cạnh giáo dục HS cá biệt, công tác duy trì sĩ số, chống bỏ học cần được GVCN quan tâm. Thường xuyên theo dõi những em có nguy cơ bỏ học, nhất là các em HS yếu, HS cá biệt.
1.3.3.6. Tổ chức hoạt động giáo dục
Trong chương trình giáo dục phổ thông ban hành các hoạt động giáo dục bao gồm hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, hoạt động giáo dục tập thể và các hoạt động ngoại khóa.
Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp là một bộ phận của quá trình giáo dục ở nhà trường THPT.Theo kế hoạch GVCN trực tiếp phụ trách ngoài giờ lên lớp, kết quả hoạt động ngoài giờ lớp là một trong những tiêu chí đánh giá thi đua của tập thể, của cá nhân. Trong mỗi năm học hoạt động ngoài giờ lên lớp được phân phối thời gian thực hiện 2 tiết/tháng, GVCN là người trực tiếp tổ chức các hoạt động ngoài giờ lớp của lớp CN mình phụ trách.
Hoạt động giáo dục tập thể bao gồm sinh hoạt dưới cờ đầu tuần và sinh hoạt lớp cuối tuần. Tiết sinh hoạt chào cờ đầu tuần được tổ chức theo quy mô toàn trường dưới sự ra điều khiển của giáo viên và HS. Sinh hoạt lớp cuối tuần, đây là dạng hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, là một hình thức tổ chức tự quản của HS
và là một trong những biện pháp cơ bản góp phần xây dựng tập thể đoàn kết. Tiết sinh hoạt lớp cuối tuần do HS cùng nhau tự tổ chức dưới sự giúp đỡ tư vấn của GVCN.
Hoạt động ngoại khóa là những hoạt động giáo dục không thuộc chương trình chính thức của nhà trường. Các hoạt động ngoại khóa như: Hoạt động chính trị xã hội, hoạt động văn hóa văn nghệ, hoạt động thể dục thể thao, vui chơi giải trí. Tùy theo kế hoạch của nhà trường, của Đoàn thanh niên mà GVCN lớp đề ra kế hoạch hoạt động ngoại khóa cho phù hợp với đặc điểm tình hình của lớp và điều kiện của nhà trường.
1.3.3.7. Giáo dục kỹ năng sống
Giáo dục kỹ năng sống là giáo dục cách sống tích cực trong xã hội hiện đại, là xây dựng những hành vi lành mạnh và thay đổi những hành vi, thói quen tiêu cực trên cơ sở giúp người học có cả kiến thức, thái độ và các kỹ năng thích hợp.
Nhiệm vụ của giáo dục kỹ năng sống là hình thành những hành vi mới và thay đổi những hành vi, thói quen tiêu cực thành những hành vi tích cực.
Nội dung giáo dục kỹ năng sống bao gồm những kỹ năng sống chung và những kỹ năng sống trong các lĩnh vực cụ thể của đời sống. Các kỹ năng sống chung gồm nhóm kỹ năng nhận thức, nhóm kỹ năng đương đầu với xúc cảm, nhóm kỹ năng xã hội. Nhóm kỹ năng sống trong các lĩnh vực cụ thể như các kỹ năng giải quyết và ứng xử với vấn đề việc làm và thu nhập, môi trường, sức khỏe sinh sản, ngăn ngừa HIV, phòng tránh rượu thuốc lá.
Nhiệm vụ của GVCN lớp là phải phối hợp với các giáo viên bộ môn tổ chức đoàn thể cá nhân trong và ngoài nhà trường để phối hợp giáo dục kỹ năng sống cho HS.
1.3.3.8. Giáo dục hướng nghiệp
Hướng nghiệp trong nhà trường phổ thông được thực hiện qua 4 con đường cơ bản gồm giáo dục hướng nghiệp theo chủ đề tháng; hướng nghiệp qua các hoạt động ngoại khóa và hoạt động ngoài giờ lên lớp gắn liền với chủ điểm hướng nghiệp; hướng nghiệp qua dạy và học môn công nghệ, dạy nghề phổ thông và hoạt
động lao động sản xuất; hướng nghiệp qua việc dạy và học các môn khoa học cơ bản. Có thể thấy GVCN thực hiện công tác hướng nghiệp cho HS thuận lợi nhất thông qua các hoạt động ngoại khóa và hoạt động ngoài giờ lên lớp gắn liền với chủ đề hướng nghiệp.
GVCN cần phối hợp với các lực lượng trong nhà trường, gia đình khuyến khích HS chủ động chọn nghề.GVCN kết hợp với giáo viên bộ môn hỗ trợ HS hiểu về nghề nghiệp một cách nghiêm túc, suy nghĩ thận trọng, trên cơ sở hiểu năng lực của mình, nghề nghiệp mà xã hội cần. Trên cơ sở GVCN nắm được nhu cầu của xã hội, biết được năng lực của HS để góp ý cho HS chọn nghề phù hợp.
1.3.3.9. Đánh giá học sinh
GVCN là người theo sát từng bước phát triển của mỗi HS và của cả lớp CN. Vì vậy GVCN có chức năng kiểm tra đánh giá kết quả học tập và rèn luyện của HS. Trong quá trình CN lớp, GVCN cần theo sát, kiểm tra, nhắc nhở và đánh giá đúng mức các kết quả hoạt động của các em nhằm đạt tới mục tiêu cần thiết.
Đánh giá HS là một nhiệm vụ của GVCN, một trong những năng lực rất quan trọng của người GVCN hiện nay. Đánh giá giúp cho cả giáo viên, cán bộ QL, HS và cha mẹ HS nhận ra kết quả học tập, giáo dục của HS ở từng thời điểm, phát huy những điểm mạnh và khắc phục những tồn tại.
Các nội dung mà GVCN đánh giá bao gồm đánh giá kết quả rèn luyện tu dưỡng của HS; đánh giá hoạt động HS; đánh giá mặt giáo dục như đánh giá kết quả rèn luyện đạo đức; đánh giá về mặt học tập gồm xếp loại học lực, kỹ năng tự học và phương pháp học, động cơ học tập, đánh giá việc giáo dục kỹ năng sống,..
1.3.3.10. Phối hợp với lực lượng trong nhà trường
Phối hợp giữa GVCN và ban giám hiệu nhà trường: GVCN là cầu nối giữa HT với các tập thể HS, điều đó giúp cho HT có những thông tin chính xác, kịp thời để định hướng lập kế hoạch và thực hiện các giải pháp đảm bảo tính hiệu quả của công tác QL. Đồng thời GVCN là người đại diện cho quyền lợi của HS, phản ánh những nguyện vọng, nhu cầu của HS đến HT một cách thường xuyên, đảm bảo giải quyết kịp thời nguyện vọng chính đáng của HS. Công việc cụ thể với GVCN là tiếp nhận
chủ trương kế hoạch và những định hướng cho từng hoạt động của nhà trường, báo cáo kết quả hoạt động của lớp CN định kỳ, đề xuất khen thưởng kỷ luật HS, đề xuất lên ban giám hiệu những nguyện vọng chính đáng của HS, phản ánh nguyện vọng của gia đình HS về sự đồng thuận hay không đồng thuận với chủ trương quy định của nhà trường.
Phối hợp giữa GVCN và giáo viên bộ môn: Giáo viên bộ môn là những người có số thời gian làm việc tiếp xúc với HS nhiều nhất, có điều kiện hiểu biết năng lực và sở trường của mỗi HS. Vì vậy việc phối hợp chặt chẽ giữa GVCN và giáo viên bộ môn sẽ giúp GVCN nắm bắt tình hình HS thường xuyên, liên tục. Sự phối hợp giữa GVCN và giáo viên bộ môn có ý nghĩa đặc biệt trong việc góp phần phát hiện năng khiếu sở trường của HS từ đó kịp thời bồi dưỡng giúp các em phát triển một cách hoàn thiện hơn năng lực của mình.
Phối hợp với tổ chức Đoàn TNCS Hồ Chí Minh: Tổ chức Đoàn là lực lượng nòng cốt hỗ trợ tích cực cho nhà trường trong việc giáo dục và QL thi đua trong HS. Từ đó, GVCN luôn quan tâm tìm kiếm các giải pháp phối hợp, giúp đỡ để tổ chức Đoàn phát huy tối đa sức mạnh của mình. GVCN quan tâm xây dựng bồi dưỡng cán bộ nòng cốt cho phong trào đoàn của lớp.
1.3.3.11. Phối hợp với lực lượng ngoài nhà trường
Phối hợp giữa GVCN và gia đình HS: Gia đình có ảnh hưởng rất nhiều đến HS, gia đình trong xã hội hiện đại chịu nhiều ảnh hưởng của đời sống kinh tế thị trường cũng như nhu cầu về tự do cá nhân. Một bộ phận cha mẹ HS hiện nay chưa nhận thức đầy đủ về sự phối hợp và ảnh hưởng lẫn nhau của giáo dục nhà trường và giáo dục gia đình. Phối hợp với gia đình vừa là một trách nhiệm của nhà trường cụ thể là GVCN. Về cách thức phối hợp như họp phụ huynh HS định kỳ, thường xuyên liên hệ với cha mẹ HS khi HS có biểu hiện sa sút trong học tập hoặc vi phạm nội quy nhà trường, đồng thời phải động viên chia sẽ với các em có hoàn cảnh khó khăn.
Phối hợp với chính quyền địa phương và các tổ chức đoàn thể xã hội: Nội dung phối hợp với cộng đồng của GVCN chủ yếu hướng vào các lực lượng có liên