Cơ Sở Lí Luận Về Quản Lí Đổi Mới Phương Pháp Dạy Học Môn Đạo Đức


Chương 2: Thực trạng quản lí đổi mới phương pháp dạy học môn Đạo đức ở các trường tiểu học Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh

Chương 3: Biện pháp quản lí đổi mới phương pháp dạy học môn Đạo đức ở các trường tiểu học Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh

Phần kết luận – Khuyến nghị Tài liệu tham khảo

Phụ lục


Chương 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ QUẢN LÍ ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC MÔN ĐẠO ĐỨC‌

Ở CÁC TRƯỜNG TIỂU HỌC

1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề‌

1.1.1. Những nghiên cứu trên thế giới‌

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 153 trang tài liệu này.

Tư tưởng về PPDH và quản lí PPDH có từ thời cổ đại, tư tưởng này được thể hiện trong những quan điểm của các nhà triết học và cũng là nhà giáo dục tiêu biểu, điển hình như Socrates (469-399 TCN). Socrates đã đề xuất PPDH bằng cách hỏi – đáp giữa hai người, hay còn gọi là phương pháp đàm thoại. Phương pháp đàm thoại đưa người học vào tình huống có vấn đề thông qua các câu hỏi gợi mở, từ đó HS tự phát hiện ra tri thức mới cho bản thân.

Nhà giáo dục Aristote (384-322 TCN) có những tư tưởng giáo dục giúp phát huy tính tích cực của người học. Aristote cho rằng muốn giáo dục con người phải xuất phát từ đặc điểm tự nhiên và nhu cầu phát triển của trẻ, trẻ em phát triển qua các thời kì, mỗi thời kì có những đặc điểm phát triển riêng nên phải có PPDH thích hợp.

Quản lí đổi mới phương pháp dạy học môn Đạo đức ở các trường tiểu học Quận 12, thành phố Hồ Chí Minh - 3

Đến thời kì phong kiến, nhà giáo dục tiêu biểu Khổng Tử có tư tưởng về PPDH phù hợp với đối tượng, ông luôn khuyến khích học trò phát huy sở trường, ý thích, khả năng của từng người. Ông nhấn mạnh đến vai trò của người học, người học tự phát huy năng lực của mình, trong quá trình học, Khổng Tử luôn bắt học trò phải suy nghĩ: “Học không suy nghĩ thì vô ích. Suy tư mà không học thì kết quả cũng chỉ bằng không”.

Thời kì tích lũy Tư bản chủ nghĩa có nhiều nhà giáo dục đã nêu lên tư tưởng dạy học tiến bộ của mình, trong đó phải kể đến J. A. Cômenxki (1592-1679) trong tác phẩm “Lí luận dạy học” đã phân tích các hiện tượng trong tự nhiên và hiện thực để đưa ra các biện pháp dạy học buộc HS phải tìm tòi, suy nghĩ để nắm được bản chất của sự vật hiện tượng.

Cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX giáo dục thời kì này rất đa dạng, xuất hiện phong trào “nhà trường mới” và nền giáo dục thực dụng, có nhiều nguyên tắc và PPDH đề cao vai trò của HS. Người có tư tưởng này là giáo dục người Mỹ John Dewey (1859


- 1952), ông cho rằng việc giảng dạy phải kích thích được hứng thú, phải để trẻ em độc lập tìm tòi, thầy giáo vừa là người thiết kế vừa là người cố vấn.

Ông T. Makiguchi người Nhật Bản có tác phẩm “Giáo dục vì cuộc sống sáng tạo” đã đưa ra những tư tưởng tiến bộ nói đến sự thay đổi vai trò của giáo viên ở giai đoạn thứ ba là: “Ở giai đoạn này môi trường tự nhiên và xã hội chính là những tài liệu giảng dạy và giáo viên là người hướng dẫn, làm môi giới cho sự tiếp xúc trực tiếp giữa học sinh và thế giới xung quanh”. Hoặc: “Giáo viên không đứng giữa môn học và học sinh mà ở bên cạnh học sinh, như là hướng dẫn viên, duy trì, kích thích, thúc đẩy việc học tập của học sinh, bằng những bước đi vừa sức và những giải thích bổ sung”. Những tư tưởng của ông đưa ra từ nửa đầu thế kỉ XX nhưng vẫn còn phù hợp với xu thế dạy học tích cực hiện nay.

Tác giả I.F. Kharlamop (1978) có tác phẩm “Phát huy tính tích cực của HS như thế nào?” đã khẳng định vai trò to lớn tích cực chủ động của việc tiếp thu tri thức mới. Ông cho rằng quá trình nắm kiến thức mới phải được xây dựng trên cơ sở cải tiến công tác tự lập của HS, của việc phân tích tài liệu, sự kiện làm nền tảng cho việc hình thành các khái niệm khoa học. Ông cũng đưa ra việc dạy học nêu vấn đề và phát huy tính tích cực tư duy của HS khi trình bày các kiến thức bằng lời rất cụ thể.

Ngày nay, những công trình nghiên cứu về PPDH và quản lí PPDH của các nhà giáo dục trên thế giới vẫn còn nguyên giá trị, được kế thừa và phát triển, đưa chất lượng, hiệu quả giáo dục lên cao.

1.1.2. Những nghiên cứu trong nước‌

Giáo dục Việt Nam ra đời từ cách mạng tháng Tám (1945), nhưng trong hoàn cảnh chiến tranh duy trì và phát triển giáo dục là điều khó khăn nên chưa thể tập trung nhiều đến cải tiến PPDH.

Đến năm 1960, vấn đề cải tiến PPDH trong các trường học được đặt ra và triển khai có hệ thống. Nhà trường được chỉ đạo để cải tiến PPDH theo hướng: Ít mà tinh; chu đáo không tham nhiều; hiện đại, khoa học, thực tiễn. Các PPDH đã được sử dụng như: hỏi - đáp, giảng giải, luyện tập, củng cố kiến thức, kiểm tra đánh giá. Viện khoa học giáo dục được thành lập vào năm 1961 để nghiên cứu về PPDH, đặc biệt Viện có


phòng nghiên cứu PPDH bộ môn như: Toán, Lí, Hóa, Văn, Sử và các môn ở tiểu học. Nội dung: Giáo dục toàn diện, gồm 4 mặt đức, trí, thể, mĩ. Phương pháp: Tăng cường thực hành, tăng giờ lao động sản xuất, chú ý đến ứng dụng tri thức vào đời sống.

Năm 1975 đất nước hoàn toàn giải phóng nhưng việc đổi mới PPDH chưa được chú trọng do việc dạy chủ yếu hướng vào mục đích thi cử. PPDH được sử dụng chủ yếu là thuyết trình.

Đến năm 1993, Hội nghị lần thứ IV của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII có Nghị quyết (1993) về: Tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào tạo (14-1- 1993). Nghị quyết khẳng định: “Đổi mới phương pháp dạy và học ở tất cả các cấp học, bậc học…áp dụng những PPDH hiện đại để bồi dưỡng cho học sinh năng lực tư duy sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề”.

Đặng Thành Hưng (2002) có cuốn sách với tựa đề: “Dạy học hiện đại- Lí luận- Biện pháp- Kĩ thuật” đã đề cập đến nhiều vấn đề về lí luận dạy học và PPDH. Tác giả đã làm rõ các PPDH truyền thống và PPH hiện đại.

Thái Duy Tuyên (2008) với tác phẩm “Phương pháp dạy học truyền thống và đổi mới” đã đưa ra nhiều vấn đề về đổi mới PPDH trong các trường hiện nay, đề cập đến vấn đề tích cực hóa hoạt động nhận thức của học sinh. Ông đã nêu rất cụ thể về sự cần thiết cần phải quản lí hoạt động đổi mới PPDH trong các trường và nội dung quản lí đổi mới PPDH trong nhà trường. Tác giả đã bàn luận rất cụ thể về hệ thống các PPDH hiện đại và nội dung đổi mới PPDH kèm theo giới thiệu một số giải pháp cụ thể trong đó nhấn mạnh đến vấn đề tái hiện và sáng tạo trong dạy học.

Trần Bá Hoành (2006) với cuốn sách: “Đổi mới phương pháp dạy học, chương trình và sách giáo khoa” đề cập những vấn đề trọng tâm của đổi mới PPDH, đưa ra những phương pháp dạy học theo hướng lấy người học làm trung tâm, phát triển các PP tích cực, tăng cường dạy các PP tự học tập, tự học.

Nghị quyết số 29-NQ/TƯ ngày 04/11/2013 (Hội nghị lần thứ 8 BCH TƯ khóa 11) về đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Bộ Giáo dục và Đào tạo đã biên soạn ra tài liệu liệu về đổi mới PPDH và tổ chức nhiều đợt tập huấn cho giáo viên phổ thông trong cả nước. Bậc


Tiểu học có tài liệu “Đổi mới phương pháp dạy học ở Tiểu học” đã cung cấp cho giáo viên và cán bộ quản lí giáo dục tiểu học những kiến thức và kĩ năng về đổi mới PPDH nói chung, về PPDH các môn học theo chương trình sách giáo khoa nói riêng.

Nguyễn Trọng Hoàn (2019) với bài “Dạy cách học-một trọng tâm trong đổi mới tư duy giáo dục hiện nay” đã đặt người GV trước những suy nghĩ “dạy cách học” như thế nào để lựa chọn đồng bộ PP, cách thức tổ chức hoạt động dạy học hợp lí để phát triển toàn diện phẩm chất và năng lực của HS. Tác giả bài báo đã phân tích cụ thể việc chuyển trọng tâm từ chủ yếu dạy “cái” sang chú trọng dạy “cách” để đánh thức những tiềm năng của HS, khích lệ các em tự khẳng định bản thân mình, đáp ứng được những yêu cầu của hiện nay của xã hội.

Yến Hoa (2019) có bài viết “Giáo viên “làm mới” bản thân” cho thấy rất nhiều GV ở Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh đã dành thời gian trong kì nghỉ hè của mình để tham gia khóa học PP DH tích cực với mục đích được truyền thêm lửa nhiệt huyết với nghề, tìm hiểu thêm những PPDH tích cực khiến cho HS say mê học. Điều đó cho thấy các thầy cô giáo đang tích cực đổi mới PPDH với tư duy tích cực. Đây là một điều rất đáng mừng cho giáo dục nước ta.

Nghiên cứu về quản lí mới đổi mới PPDH có một số công trình luận văn thạc sĩ

như:

Phan Ngọc Trọng (2010) với đề tài “Thực trạng quản lí đổi mới phương pháp

dạy học ở các trường trung học phổ thông tỉnh Bến Tre” đã đánh giá thực trạng quản lí đổi mới PPDH ở các trường trung học phổ thông tỉnh Bến Tre, và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác quản lí PPDH và hoạt động dạy học ở các trường trung học phổ thông tỉnh Bến Tre.

Bùi Hồng Dung (2010) có đề tài “Thực trạng và biện pháp quản lí việc đổi mới phương pháp giảng dạy Tiếng Anh ở các trường Trung học phổ thông tại Quận 6, TP Hồ Chí Minh” chỉ ra thực trạng thực hiện nội dung quản lí đổi mới giảng dạy tiếng Anh và thực trạng quản lí đổi mới PP giảng dạy tiếng Anh.Từ đó, tác giả đề xuất các biện pháp quản lí nhằm đổi mới hoạt động giảng dạy tiếng Anh ở trường trung học phổ thông.


Nguyễn Thị Thanh Trà (2013) với đề tài “Quản lí hoạt động đổi mới phương pháp dạy học ở trường tiểu học Nguyễn Tri Phương, quận Hồng Bàng - Hải Phòng” đã đánh giá thực trạng quản lí hoạt động đổi mới PPDH ở trường Tiểu học Nguyễn Tri Phương, quận Hồng Bàng - Hải Phòng. Từ đó, tác giả đã đề xuất các biện pháp quản lí hoạt động đổi mới PPDH ở trường Tiểu học Nguyễn Tri Phương, quận Hồng Bàng - Hải Phòng.

Những luận văn trên đã làm rõ một số vấn đề lí luận, thực tiễn về quản lí đổi mới PPDH đề ra các giải pháp nâng cao chất lượng dạy học các môn học ở các trường trung học cơ sở, trung học phổ thông, quản lí đổi mới PPDH chung trong nhà trường tiểu học, chưa có đề tài đi sâu nghiên cứu môn Đạo đức. Cụ thể hơn, chưa có đề tài nào nghiên cứu việc quản lí đổi mới PPDH môn Đạo đức ở các trường tiểu học Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh.

1.2. Các khái niệm cơ bản của đề tài‌

1.2.1. Quản lí, quản lí trường học‌

* Quản lí

Hoạt động quản lí có từ rất sớm. Nó xuất hiện từ khi con người biết tập hợp lại với nhau để lao động và chung sống. Đây là quá trình lôi cuốn tất cả mọi người vào hoạt động của tổ chức với sự phân công và hợp tác lao động. Tất cả nhằm tạo ra sức mạnh để đạt được mục đích chung đã đề ra. Có rất nhiều khái niệm khác nhau về quản lí:

Tác giả Trần Kiểm (1997) đã đưa ra: “Quản lí là nhằm phối hợp nỗ lực của nhiều người, sao cho mục tiêu của từng cá nhân biến thành những thành tựu của xã hội”.

Theo Nguyễn Bá Sơn (2000): “Quản lí là tác động có mục đích đến tập thể những con người để tổ chức và phối hợp hoạt động của họ trong quá trình lao động”.

Hà Sĩ Hồ (1985) viết: “Quản lí là một quá trình tác động có định hướng (có chủ đích), có tổ chức, lựa chọn trong số các tác động có thể có, dựa trên các thông tin về tình trạng của đối tượng và môi trường, nhằm giữ cho sự vận hành của đối tượng được ổn định và làm cho nó phát triển tới mục đích đã định”.


Như vậy, có nhiều cách tiếp cận khác nhau nhưng bản chất của hoạt động quản lí là tổ chức, chỉ huy, điều khiển nhằm thực hiện những mục tiêu do tổ chức đề ra.

Từ những khái niệm trên có thể hiểu quản lí như sau: Quản lí là sự tác động có tổ chức, có mục đích của chủ thể quản lí để lãnh đạo, điều khiển khách thể quản lí nhằm đạt được mục tiêu mà tổ chức đề ra.

* Quản lí giáo dục

Quản lí giáo dục là một dạng lao động đặc biệt, được tồn tại, vận động và phát triển trong một hệ thống. Có nhiều quan niệm khác nhau về quản lí giáo dục:

Đặng Quốc Bảo (1977) đã viết: “Quản lí giáo dục nói chung là thực hiện đường lối giáo dục của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức là đưa nhà trường vận hành tiến tới mục tiêu đào tạo theo nguyên lí giáo dục”.

Nguyễn Thị Mỹ Lộc, Đặng Quốc Bảo, Nguyễn Trọng Hậu, Nguyễn Quốc Chí và Nguyễn Sĩ Thư (2015) đã đề xuất: “Quản lí giáo dục là quá trình tác động có kế hoạch, có tổ chức của các cơ quan QLGD các cấp tới các thành tố của quá trình dạy học – giáo dục nhằm làm cho hệ thống giáo dục vận hành có hiệu quả và đạt tới mục tiêu giáo dục nhà nước đề ra”.

Trần Kiểm (2016) viết: “Quản lí giáo dục là hoạt động tự giác của chủ thể quản lí nhằm huy động, tổ chức, điều phối, điều chỉnh, giám sát, …một cách có hiệu quả các nguồn lực giáo dục (nhân lực, vật lực, tài lực) phục vụ cho mục tiêu phát triển giáo dục, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế- xã hội”.

Như vậy, quản lí giáo dục là sự tác động liên tục có tổ chức, có hệ thống, có mục đích, có kế hoạch của chủ thể quản lí lên khách thể quản lí nhằm đưa hoạt động giáo dục phát triển đáp ứng yêu cầu của xã hội.

* Quản lí trường học

Phạm Minh Hạc (1986) đã viết: “Quản lí nhà trường, quản lí giáo dục là tổ chức hoạt động dạy học…Có tổ chức được hoạt động dạy học, thực hiện được các tính chất của nhà trường phổ thông Việt Nam xã hội chủ nghĩa mới quản lí được giáo dục, tức là cụ thể hóa đường lối giáo dục của Đảng và biến đường lối đó thành hiện thực, đáp ứng yêu cầu của nhân dân, của đất nước”.


Theo tác giả Trần Kiểm (2004), thuật ngữ “Quản lí trường học” thực chất là những tác động của chủ thể quản lí vào quá trình giáo dục (tiến hành bởi GV và HS với sự hỗ trợ của các lực lượng xã hội) nhằm hình thành và phát triển nhân cách HS theo mục tiêu đào tạo của nhà trường.

Quản lí trường tiểu học là quản lí toàn bộ các hoạt động của nhà trường tiểu học. Công tác quản lí hoạt động dạy học giữ vị trí trọng tâm. Nhiệm vụ quản lí nhằm huy động các nguồn lực, đảm bảo được mục tiêu phát triển giáo dục tiểu học và ngày càng nâng cao chất lượng đào tạo của nhà trường, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội.

Trên những cơ sở nội dung đã nêu ở trên, có thể hiểu, Quản lí trường học là những tác động có ý thức, có mục đích, có kế hoạch của chủ thể quản lí lên tất cả các mặt của nhà trường nhằm hình thành và phát triển toàn diện nhân cách học sinh theo mục tiêu đào tạo của nhà trường.

1.2.2. Khái niệm về đổi mới phương pháp dạy học môn Đạo đức ở trường tiểu học‌

* Dạy học

Trần Thị Hương (2009) đã viết: “Hoạt động dạy là hệ thống những hành động phối hợp, tương tác giữa giáo viên và học sinh. Trong đó, dưới tác động chủ đạo của giáo viên, học sinh tự giác, tích cực, chủ động lĩnh hội hệ thống tri thức khoa học, kĩ năng, kĩ xảo, phát triển năng lực nhận thức, năng lực hành động, hình thành thế giới quan khoa học và những phẩm chất của nhân cách”.

Hoạt động dạy học là hoạt động dạy của GV và hoạt động học của HS. Hai hoạt động này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau trong quan hệ tương tác giữa mục tiêu, nội dung, phương pháp. Trong đó, hoạt động nhận thức của HS có vai trò quyết định kết quả dạy học. GV tổ chức cho HS lĩnh hội kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo, hoạt động nhận thức và thực tiễn. Từ đó hình thành thế giới quan, phát triển năng lực và phẩm chất nhân cách cho HS.

Dạy và học là hai hoạt động tác động và phối hợp với nhau, nếu thiếu hoạt động dạy của GV thì nó thành hoạt động tự học của HS. Còn thiếu hoạt động học của HS

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 31/05/2023