Những vấn đề cơ bản về chứng khoán và thị trường chứng khoán - 24

cổ đông đang nắm quyền kiểm soát, còn với những người coi cổ phiếu chỉ đơn giản là một khoản dầu tư thì lại vui mừng vì diều này. Nếu cổ phiếu của một doanh nghiệp phát hành rộng rãi cho công chúng thì công ty sẽ thu được nhiều điều lợi và bản thân

các cổ

đông cũng có lợi không ít. Khi cổ

phiếu được phát hành rộng rãi thì thông

thường giá cả của chúng tăng lên, đồng thời lại có một thị trường cho cổ phiếu đó, giúp những người đầu tư có thể thu hồi vốn dễ dàng bằng cách bán lại cổ phiếu của mình. Trong trường hợp doanh nghiệp quyết định phát hành trái phiếu thì việc xác định mức tín nhiệm là công việc bắt buộc. Các nhà tư vấn có thể giúp doanh nghiệp xác định mức tín nhiệm trên cơ sở khả năng trả nợ. Các công ty có mức tín nhiệm càng cao càng có khả năng phát hành trái phiếu với lãi suất thấp và dễ dàng thu hút những người đầu tư Quá trình xác định mức tín nhiệm là một quá trình phức tạp. Nhà tư vấn phải xem xét mọi khía cạnh lien quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty, nhất là các dòng tiền thu nhập, tính ổn định của các dòng thu nhập này. Việc xem xét còn phải dựa vào quá khứ và triển vọng tương lai của doanh nghiệp. Vì việc xác định mức tín nhiệm có liên quan rất lớn đến chi phí vay vốn của các doanh nghiệp nên uy tín của nhà tư vấn là vô cùng quan trọng. Người ta sẽ chỉ tin theo nhũng nhà tư vấn có uy tín, có kinh nghiệm và luôn luôn nhìn nhận sự việc một cách khách quan. Một sự đánh giá sai lệch của nhà tư vấn sẽ làm cho thị trường có cách nhìn không đúng về một nhà phát hành, về một l081 chứng khoán nào đó, và có thể dẫn đến những diễn biến không tết trong tâm lý của các nhà đầu tư.

- Tư vấn tái cơ cấu nguồn vốn: Khi một doanh nghiệp nhận thấy, hay thông qua quá trình tư vấn mà nhận thấy cơ cấu vốn của mình không phù hợp với các điều kiện kinh doanh hiện tại, không phù hợp với ngành nghề của mình thì họ sẽ tìm cách tái cơ cấu nguồn vốn để nâng cao hiệu quả và đảm bảo kinh doanh an toàn. Trong trường hợp này, công ty chứng khoán là đối tác thích hợp vì nó là nhà chuyên môn trong inh vục tài chính. Tư vấn hợp nhất doanh nghiệp: Khi một doanh nghiệp muốn thâu tóm doanh nghiệp khác hay hợp nhất với một doanh nghiệp khác, nó sẽ tìm đến một công ty chứng khoán để nhờ trợ giúp các vấn đề kỹ thuật, phương pháp tiến hành thế nào là phù hợp và đỡ tốn kém chi phí, cách thức cơ cấu nguồn vốn sau khi sáp nhập. Ở các nước, hoạt động tư vấn này rất phát triển vì nó xuất phát từ nhu cầu thực tế của hoạt động kinh doanh. Tư vấn đầu tư. Đây là hoạt động rất phổ biến trên thị

trường thứ cấp, nó diễn ra hàng ngày, hàng giờ, dưới nhiều hình thức khác nhau. ĐÓ có thể là những lời khuyên hay những bản tin, những bài phân tích hoặc những hợp đồng dịch vụ. Mỗi hình thức đều có những đặc điểm riêng, và việc thực hiện và giám sát mỗi hình thức này lại có những tính chất khác nhau. Để rõ hơn về vấn đề này, ta có thể đi vào từng hoạt động cụ thể: Tư vấn trực tiếp: Hoạt động này thường diễn ra cùng với hoạt động môi giới. Khi khách hàng gọi điện thoại tới cho nhà môi giới, thường người ta sẽ hỏi rằng: "Giá cả hôm nay như thế nào" và sau khi được nghe trả lời, họ có thể muốn biết quan điểm của nhà môi giới về xu hướng giá cả. Trong

trường hợp này, nhà môi giới không được phép đánh giá về

xu hướng giá cả

của

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 480 trang tài liệu này.

chứng khoán mà chỉ được nêu những sự kiện thực tế đã diễn ra một cách trung thực và hỗ trợ cho nhà đầu tư muốn mua bán bằng cách khuyên người dầu tư về mức giá đặt hợp lý để có thể mua bán dược. việc quản lý hoạt động này vô cùng khó khăn vì rết khó tìm dược bằng chửng về các hành vỉ tư vấn của nhà môi giới, đồng thời có thể hoạt động tư vấn mà không cần có giấy phép. Điều đó có thể dẫn đến những lỏng lẻo về chất lượng của hoạt động tư vấn, gây nên những mâu thuẫn giữa việc quản lý và thực tế hoạt động của công ty môi giới. Hơn nữa, nghiệp vụ tư vấn loại này có những mâu thuẫn với hoạt động tự doanh. Nêu không tách biệt các hoạt động này trong cùng một công ty thì có thể nhà môi giới nếu cần bán một loại chứng khoán nào đó thì sẽ khuyên khách hàng mua vào Nữ nếu họ cần mua thì lại kbuybn khách hàng bán rao . Cung cấp thông tin va đánh giá tình hình: Trước đây việc cung cấp thông tin dược hiểu là việc phát hành các bản tin dưới hình thức giấy tờ Ngày nay với những tiến bộ của công nghệ thông tin hiện đại, việc

cung cấp thông tin cô thể dưới hình thức giấy tờ có thể là qua các phương tiện truyền thông, đặc biệt là Internet. Các bản tin này có lúc chỉ đơn giản là đưa ra những con sốbiê~n đồng giá cả: các báo cáo tài chính, báo cáo Linh hình kinh doanh của các công ty niêm yết. Tuy nhiên, để các bản tin hấp dẫn hơn, người ta thường có kèm những lời phân tích và đánh giá tình hình thị trường, tình hình giá cả của các loại chứng khoán Người ta có thể dùng lời văn hay những biểu đồ để phân tích, những biểu đồ này thưởng được xây dựng theo những lý thuyết thị trường nhất dính hoặc theo những đánh giá riêng của từng nhà tư vấn. Việc phân tích các tình huống thực tế

Những vấn đề cơ bản về chứng khoán và thị trường chứng khoán - 24

cũng có thể rất khác nhau. CÓ người quan niệm rằng tình huống diễn biến như vậy là tết, là hợp lý, lại có người cho rằng cùng

tình huống này, diễn biến như vậy là rất xấu. Việc phân biệt ranh giới giữa tư vấn kiểu này với lũng đoạn thị trường cũng không hoàn toàn rõ ràng. Nếu một nhà tư vấn được phép phát ngôn thoải mái, họ rất có thể sẽ làm ảnh hưởng đến tâm lý của các nhà đầu tư. Ai cũng biết rằng các nhà tư vấn là những chuyên gia trong lĩnh vực của họ, họ có nhiều thông tin và kiến thức hơn những người khác, do vậy họ có thể đánh giá tình hình chính xác hơn và những lời phát ngôn của họ có thể trở thành những lời tiên đoán, định hướng cho toàn bộ thị trường. Nhà tư vấn thường đánh giá tình huống theo kiến thức, kinh nghiệm và tư duy chủ quan, do vậy việc đánh giá tình huống của mỗi nhà tư vấn là khác nhau. Theo tư duy thông thường, không ai tự coi mình là sai cả, một nhà tư vấn cũng vậy, họ luôn khẳng định những phân tích, dự đoán của mình là chính xác, có căn cử khoa học. Mặt khác, họ lại 'không phải chịu trách nhiệm về những dự đoán của mình, họ chỉ phân tích còn quyền quyết định lại là của các nhà đầu tư. Khi một nhà tư vấn muốn lũng đoạn thị trường, anh ta có thể lèo lái những phân tích, đánh giá và dự đoán xu hướng thị trường theo hướng mà mình muốn, tạo ra tâm lý làm theo của các nhà đầu tư và thu lợi bất chính. Nhà tư vấn cũng có thể áp dụng hay tự phát minh ra những công thức phức tạp, khó hiểu và đánh giá tình hình dựa trên những công thức đó. Những người bình thường, không có kiến thức về lĩnh vực tài chính sẽ không thể hiểu nổi những công thức như vậy mà chỉ còn biết hút theo sự dẫn dắt của người viết. Tuy nhiên, việc quản lý hoạt động này dù sao cũng đỡ khó khăn hơn so với quản lý hoạt động tư vấn trực tiếp vì các bản tin, bản báo cáo đánh giá là những bằng chứng về hành vi của nhà tư vấn. CƠ quan quản lý nhà nước yêu cầu nhà tư vấn phải có kiến thức, kinh nghiệm cũng như hái độ khách quan khi nhìn nhận sự việc. Thái độ khách quan của nhà tư vấn chính là thước đo đạo đức công việc của anh ta. CƠ quan quản lý có thể bắt nhà tư vấn khi làm các báo cáo phải nhìn nhận sự việc một cách toàn diện, đánh giá trên cơ sở tổng hợp các số liệu, không được phép thiên lệch về một hay một vài sự kiện nào đó mà bỏ qua những sự kiện khác. Nhà tư vấn cũng không được phép đưa ra những lời khẳng định như: "Ngày mai giá cổ phiếu A lên" vì nó tuy là một lời đánh giá nhưng lại mang tính lôi kéo, kích động các nhà đầu tư hôm sau đổ xô vào thị trường này. Như vậy, việc dự đoán tình ' hình thị trường

không được phép mang tính ngắn hạn. Đánh giá về một loại chứng khoán nào đó phải có tính dài hạn, tức là trên cơ sở các phân tích vĩ mô và vi mô, đánh giá triển vọng lâu dài của một loại chứng khoán nào đó. Tính khách quan và chính xác của những bản tin phân tích chính là uy tín, chất lượng của nhà tư vấn và anh ta chỉ có thể tồn tại nếu làm được điều đó. Một điểm quan trọng khác là, nếu nhà tư vấn đồng thời kiêm thêm nhiều hoạt động dịch vụ khác thì hoạt động tư vấn cũng làm ảnh hưởng đến uy tín chung. Một nhà môi giới tư vấn không tất sẽ bị khách hàng tẩy chay, còn nếu anh ta không hoạt động tư vấn sẽ có ít khách hàng đến với hoạt động môi giới của anh ta hơn. Tư vấn uỷ quyền: Đây thực chất là hoạt động quản lý danh mục đầu tư. Từ trước tới nay, ta đã nghe nói về hoạt động này trong các tài liệu, kể cả trong Nghị định 48, chúng tôi chỉ xin đề cập rõ hơn một chút về hoạt động này. Trong Nghị định 48, quản lý danh mục đầu tư được định nghĩa là hoạt động quản lý vốn của khách hang thông qua việc mua, bán và nắm giữ các chứng khoán vì quyền lợi của khách hàng. Hiểu một cách nôm na, hoạt động đó có nghĩa là một hay một số khách hàng có vốn nhàn rỗi muốn đầu tư, họ tìm kiếm một hình thức đầu tư có mức' sinh lợi cao hơn so với chỉ gửi tiết kiệm đơn thuần và cũng chấp nhận mức độ rủi ro lớn hơn. Tuy nhiên, những khách hàng này không có đủ thời gian và kiến thức chuyên môn để đầu tư, do vậy họ chọn phương án là thuê người khác đầu tư giúp mình và trả một khoản phí nhất định. HỌ có thể chọn phương án mua chứng chỉ đầu tư của các quỹ đầu tư nếu như họ chỉ có ít tiền và không quan tâm nhiều đến các hoạt động đầu tư của mình. Nhưng nếuhọ có một số vốn đủ lớn và muốn có quyền quyết định trong đầu tư thì họ sẽ thuê một nhà quản lý danh mục đầu tư, thường là các công ty chứng khoán, giúp mình. Trên thực tế, một số nhà đầu tư có số vốn nhàn rỗi thường xuyên lớn sẽ tự mình tổ chức đội ngũ quản lý danh mục đầu tư riêng vì họ có thể tin tưởng vào đội ngũ này, đồng thời mức chi phí tính trên tổng tài sản dùng đầu tư là chấp nhận được. Những người có số vốn ít hơn nhận thấy việc thuê đội ngũ riêng là không hợp lý vì chi phí cao, họ sẽ tìm đến các công ty chứng khoán, những nhà chuyên .môn trong lĩnh vực đầu tư để nhờ giúp đỡ. Các công ty chứng khoán khi thực hiện nghiệp vụ này sẽ được hưởng phí quản lý và được nhà đầu tư trả các chi phí phát sinh khi thực hiện dầu tư. HỌ cũng có thể nhận được những khoản tiền thưởng nhất định khi hoàn thành tết nhiệm vụ. Trong khi quản lý tài sản cho khách hàng, công ty chứng khoán phải tuân

thủ các điều kiện trong hợp đồng ký kết. Hợp đồng này được thảo ra trên các nguyên tắc của luật dân sự và tuân thủ các quy định của ngành chứng khoán. Trong đó, công ty chứng khoán phải xác định rõ với khách hàng là họ không đảm bảo về lợi nhuận đầu tư và mọi rủi ro của hoạt động đầu tư sẽ do khách hàng gánh chịu. Hợp đồng cũng phải xác định rõ mức độ uỷ quyền của khách hàng cho công ty chứng khoán. Khách hàng . có thể uỷ quyền toàn bộ cho công ty chứng khoán, tức là công ty chứng khoán có thể có quyền quyết định về đối tượng đầu tư, đó là những loại chứng khoán hay tài sản nào, thời điểm nào mua vào, thời điểm nào bán ra. Tuy nhiên. dù là uỷ quyền toàn

bộ nhưng để đảm bảo quyền lợi của khách hàng, công ty chứng khoán vẫn phải

thường xuyên gửi các thông háo trước và sau khí tiến hành giao dịch và kết quả thực hiện giao dịch. Đồng thời, hàng tháng họ cũng phản gửi cho khách hàng các bảng kê tài sản tính theo giá từ thị trường vào thời điểm báo cáo. Sau khi nhận được thông báo của công ty chứng khoán về việc chuẩn bị giao dịch, khách hàng có thể có ý kiến đồng ý hoặc phản đối. Nếu khách hàng không có ý kiến gì công ty chứng khoán có quyền hành động theo những giao kết trong hợp đong. Trong trường hợp công ty chứng khoán thực hiện đúng các điều kiện hợp dồng giao dịch đã được thực hiện mà lúc đó mới có ý kiến phản đối của khách hàng thì ý kiến đó vô hiệu. Hợp đồng quản lý danh mục đầu tư cũng có thể là hợp đồng uy quyền một phần, trong đó khách hàng quy định rõ công ty chứng khoán chỉ được phép thay mặt mình thực h~àện một số hoạt động nào đó. Các hoạt động này sẽ phải được hệt kê đầy đủ trong hợp đồng quản lý danh mục đầu tư và công (y chứng khoán phải tuyệt đổi tuân thủ các diều kiện này. ~ ~ Nghiệp vụ này cũng có một số mâu thuẫn với nghiệp vụ môi giới và nghiệp vụ tự doanh Công ty chứng khoán có thể tiến hành nhiều giao dịch cho khách hàng trên mục cần thiết để thu phí hoa hồng, do vậy nó cần được quản lý chặt chẽ và tách biệt trong cùng một công ty. Nếu khách hàng chứng minh được rằng công ty chứng khoán đã thực hiện số giao dịch nhiều hơn mức cần thiết thì công ty sẽ phải bồi thường thiệt hại cho khách hàng. Mặt khác công

ty chứng khoán khi tiến hành hoạt động tự doanh có thể lợi dụng tài sản của khách hàng để kiếm lợi cho riêng mình. Do vậy, ngoài việc kiểm tra của cơ quan quản lý, khách hàng còn phải có cơ chế tự bảo vệ nằm tránh sự trục lợi của công ty chứng khoán. CƠ chế này phải do chính công ty chứng khoán đặt ra và giới thiệu để khách

hàng chấp thuận vì bản thân khách hàng không phải là một nhà chuyên môn nên họ khó có thể nghĩ ra những cơ chế như vậy.

5. Nghiệp vụ quản lý danh mục đầu tư

Đây là một dạng nghiệp vụ tư vấn của công ty chứng khoán nhưng Ở mức độ cao hơn vì trong hoạt động này, khách hàng ủy thác cho công ty chứng khoán thay mặt mình quyết định đầu tư theo một chiến lược hay những nguyên tắc đã được khách hàng chấp thuận. CÓ thể nêu một số bước mà công ty chứng khoán phải làm khi thực hiện nghiệp vụ này như sau:

Bước 1: Công ty chứng khoán và khách hàng tiếp xúc tìm hiểu khả năng của nhau. Công ty chửng khoán phải tìm hiểu rô về khách hàng: là tổ chức hay cá nhân, số tiền và nguồn gốc tiền định đầu tư, mục đích đầu tư, thời hạn đầu tư Đồng thời, công ty phải chứng minh cho khách hàng thấy được khả năng của mình, đặc biệt là khả năng chuyên môn và khả năng kiểm soát nội bộ, đây là hai tiêu chuẩn quan trọng nhất của công ty. Khả năng chuyên môn chính là khả năng đầu tư vốn đem lại lợi nhuận cho khách hàng còn khả năng kiểm soát nội bộ là việc công ty có thể đảm bảo an toàn tài sản cho khách hàng, chống lại những thất thoát do sự vô ý hay cố tình của nhân viên công ty.

Buột. 2: Công ty và khách hàng tiến hành ký hợp đồng quản lý. Nội dung hợp đồng phải quy định rõ nhiều yếu tố số tiền và thời hạn ủy thác, mục tiêu đầu tư, giới hạn quyền và giới hạn trách nhiệm của công ty, phí quản lý mà công ty được hưởng.

Bước 3: Thực hiện hợp đồng quản lý. Trong khi thực hiện hợp đồng, công ty phải vận dụng hết những kỹ năng và kinh nghiệm của mình để đầu tư vốn của khách hàng, đồng thời phải tuân thủ triệt để những điều khoản quy định trong hợp đồng. Nếu có những phát sinh ngoài hợp đồng thì công ty phải xin ý kiến của khách hàng bằng văn bản và phải thực hiện theo đúng quyết định của khách hàng. Ngoài ra, công ty phải nghiêm ngặt tách rời hoạt động tự doanh và hoạt động môi giới để đảm bảo tránh mâu thuẫn về lợi ích. Bước 4: Khi đến hạn kết thúc hợp đồng hay trong một số trường hợp công ty giải thể, phá sản, ngừng hoạt động. . . công ty phải cùng với khách hàng bàn bạc và quyết định xem có tiếp tục gia hạn hay thanh lý hợp đồng không. Trong trường hợp công ty chứng khoán phá sản, tài sản ủy thác của khách hàng. phải được tách riêng và không được dùng để trả các nghĩa vụ nợ của công ty chứng khoán

Thực hiện nghiệp vụ này cho khách hàng, công ty chứng khoán vừa bảo quản hộ chứng khoán, vừa đầu tư hộ chửng khoán. Thông thường công ty chứng khoán nhận được phí quản lý bằng một tỷ lệ phần trăm nhất định trên một số lợi nhuận thu về cho khách hàng.

6. Các nghiệp vụ khác

6.1. Nghiệp vụ tín dụng

Đây là một hoạt động thông dụng tại các thị trường chứng khoán phát triển. Còn Ở các thị trường mới nổi, hoạt động này bị hạn chế, chỉ các định chế tài chính đặc biệt mới được phép cấp vốn vay. Thậm chí một số nước còn không cho phép thực hiện cho vay ký quỹ. Cho vay ký quỹ là hình thức cấp tín dụng của công ty chứng khoán cho khách hàng của mình để họ mua chứng khoán và sử dụng các chứng khoán đó làm vật thế chấp cho khoản vay đó. Khách hàng chỉ cần ký quỹ một phần, số còn lại sẽ do công ty chứng khoán ứng trước tiền thanh toán. Đến kỳ hạn dã thỏa thuận, khách hàng phải hoàn trả. đủ số chênh lệch cùng với lãi cho công ty chứng khoán.

rường hợp khách hàng không trả được nợ, thì công ty có quyền sở hữu số chứng

khoán đã mua. Rủi ro xảy ra đối với công ty chứng khoán là chứng khoán thế chấp có thể bị giảm giá tới mức giá trị của chúng thấp hơn giá trị khoản vay ký quỹ. Vì thế khi cấp khoản vay ký quỹ, công ty chứng khoán phải có những nguyên tắc riêng về đảm bảo thu hồi vốn và tránh tập trung quá mức vào một khách hàng hay một loại chứng khoán nhất định. Nghiệp vụ này thường đi kèm với nghiệp vụ môi giới trong một công ty chứng khoán, vì vậy quy trình giao dịch về căn bản là giống nhau. CÓ điểm khác là: nếu giao dịch môi giới thường sử đụng tài khoản tiền mặt thì giao dịch cho vay ký quỹ lại sử dụng tài khoản ký quỹ.

6.2. Tư vốn đầu tư vò tư vấn tài chính công ty Dịch vụ tư vấn đầu tư và tư vấn tài chính có thể do bất kỳ công ty chứng khoán hay cá nhân nào tham gia thông qua Khuyến cáo. Lập báo cáo.

- Tư vấn trực tiếp. Thông qua ấn phẩm về chứng khoán để thu phí. Hoạt động tư vấn đầu tư lả việc cung cấp các thong tin, cách thức, đối tượng chứng khoán, thời hạn, khu vực. .. và các vấn đề có tính quy luật về hoạt động đầu tư chứng khoán. Nghiệp vụ này đòi hỏi nhiều kiến thức và kỹ năng chuyên môn mà không yêu cầu nhiều vốn. Tính trung thực của cá nhân hay công ty tư vấn có tầm quan trọng lớn.

Ngoài dịch vụ tư vấn đầu tư, các công ty chứng khoán có thể sử dụng kỹ năng để tư vấn cho các công ty về việc sáp nhập, thâu tóm, tái cơ cấu vốn của công ty để đạt hiệu quả hoạt động tối ưu.

6.3. Nghiệp vụ quản lý thu nhập chứng khoán (quản lý cổ tức) Nghiệp vụ này của công ty chứng khoán xuất phát từ nghiệp vụ quản lý hộ chứng khoán cho khách hàng. Khi thực hiện quản lý hộ, công ty phải tổ chức theo dõi tình hình thu lãi chứng khoán khi đến hạn để thu hộ rồi gửi báo cáo cho khách hàng. Tuy nhiên, trên thực tế các công ty thường không trực tiếp quản lý mà sẽ lưu ký tại trung tâm lưu giữ chứng khoán. Ngoài các nghiệp vụ kể trên, công ty' chứng khoán còn có thể thực hiện một số hoạt động khác như cho vay chứng khoán, quản lý quỹ đầu tư, kinh doanh bảo hiểm...

HOẠT ĐỘNG TÀI CHÍNH

Giống như các loại công ty khác, hoạt động tài chính của công ty chứng khoán cũng bao gồm việc xác định kinh doanh cái gì để thu nhiều lợi nhuận; sử dụng các loại tài sản cố định gì; lấy nguồn tài chính dài hạn nào để chì phí cho khoản đầu tư của mình (đi vay hay gọi thêm cổ đông); quản lý các loại hoạt động thu chi, thanh toán cho khách hàng như thế nào... Hoạt động tài chính có quan hệ mật thiết với hoạt động nghiệp vụ. SỐ lượng nghiệp vụ và quy mô kinh doanh lớn thế nào thì ứng với nó là mảng tài chính công ty như vậy. Phần dưới đây sẽ đi sâu tìm hiểu các hoạt động tài chính ấy của một công ty chứng khoán.

1. Vốn của công ty chứng khoán Vốn của một công ty chứng khoán nhiều hay ít phụ thuộc vào loại tài sản cần tài trợ, mà loại tài sản này lại dược quyết định bởi loại hình nghiệp vụ mà nó thực hiện. Bảo lãnh phát hành và giao dịch chứng khoán (tự doanh) là hình thức kinh doanh cần nhiều vốn, bởi công ty chứng khoán thường phải duy trì số lượng lớn các chứng khoán và bản thân giá của các công cụ thị trường vốn (ví dụ cổ phiếu và trái phiếu dài hạn) luôn biến động mạnh. Còn hoạt động môi giới, thực hiện dịch vụ quản lý tiền, tư vấn thì không cần vốn lớn . Tại Mỹ, các tài sản có liên quan dấn khách hàng của các công ty chứng khoán thường được tài trợ bằng tài sản nợ liên quan đến khách hàng. Việc tài trợ các khoản thâm hụt của công ty chứng khoán lại phụ thuộc rất nhiều vào chính loại chứng khoán được nắm giữ trong danh mục vả quy mô, sự đa dạng trong hoạt động kinh doanh của các công ty. Ví dụ, các giao dịch đối với các chứng khoán chính phủ thường được tài trợ bằng các hợp đồng

Xem tất cả 480 trang.

Ngày đăng: 13/06/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí