trình nghiệp vụ riêng, phù hợp. Tuy nhiên, trên giác độ chung nhất, quy trình hoạt động tự doanh có thể được chia thành một số giai đoạn sau:
Giai đoạn 1: Xây đựng chiến lược đầu tư Trong giai đoạn này, công ty chứng khoán phải xác định được chiến lược trong hoạt động tự doanh của mình. ĐÓ có thể là chiến lược đầu tư chủ động, thụ động hoặc đầu tư vào một số ngành nghề, lĩnh vực cụ thể nào đó.
Giai đoạn 2: Khai thác, tìm kiêm các cơ hội đầu tư Sau khi xây dựng được chiến lược đầu tư của công ty, bộ phận tự doanh sẽ triển khai tìm kiếm các nguồn hang hoá, cơ hội đầu tư trên thị trường theo mục tiêu đã đưa.
Giai đoạn 3: Phân tích, đánh giá chất lượng cơ hội đầu tư Trong giai đoạn này, bộ phận tự doanh có thể kết hợp với bộ phận phân tích trong công ty tiến hành thẩm định, đánh giá chất lượng của các khoản đầu tư. Kết quả của giai đoạn này sẽ là những kết luận cụ thể về việc công ty có nên đầu tư hay không và đầu tư với số lượng, giá cả bao nhiêu là hợp lý.
Giai đoạn 4: Thực hiện đầu tư Sau khi đã đánh giá, phân tích các cơ hội đầu tư, bộ phận tự doanh sẽ triển khai thực hiện các hoạt động giao dịch mua, bán chứng khoán. CƠ chế giao dịch sẽ tuân theo các quy định của pháp luật và các chuẩn mực chung trong ngành.
Giai đoạn 5: Quản lý đầu tư và thu hồi vôn Trong giai đoạn này, bộ phận tự doanh có trách nhiệm thao dõi các khoản đầu tư, đánh giá tình hình và thực hiện những hoán đổi cần thiết, hợp lý. Sau khi thu hồi vốn, bộ phận tự doanh sẽ tổng kết, đánh giá lại tình hình
thực hiện và lại tiếp tục chu kỳ mới.
3. Nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán
3.1. Tài liệu. bảo lãnh phát hành chứng khoán Tài liệu cơ bản quy định quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia đợt phát hành chứng khoán ra công chúng bao gồm:
- Hợp đồng giữa các tổ chức bảo lãnh
Có thể bạn quan tâm!
- Những vấn đề cơ bản về chứng khoán và thị trường chứng khoán - 19
- Những vấn đề cơ bản về chứng khoán và thị trường chứng khoán - 20
- Những vấn đề cơ bản về chứng khoán và thị trường chứng khoán - 21
- Những vấn đề cơ bản về chứng khoán và thị trường chứng khoán - 23
- Những vấn đề cơ bản về chứng khoán và thị trường chứng khoán - 24
- Những vấn đề cơ bản về chứng khoán và thị trường chứng khoán - 25
Xem toàn bộ 480 trang tài liệu này.
- Hợp đồng bảo lãnh phát hành (cam kết bảo lãnh phát hành). Hợp đồng với các đại lý được lựa chọn. Các hợp đồng này quy định các điều khoản nhằm đảm bảo hồ sơ đăng ký phát hành và bản cáo bạch chứa đựng các thông tin đầy đủ về Linh hình tài chính và kinh doanh của tổ chức phát hành và bảo vệ các tổ chức bảo lãnh trong một
số trường hợp cụ thể nếu họ không đáp ứng được các nghĩa vụ bảo lãnh. Điều quan trọng nhất trong các tài liệu này là việc quy định phạm vi chào bán cũng như quy định về các quyền và trách nhiệm của tổ chức bảo lãnh và đại lý tham gia quá trình chào bán.
a. Hợp đồng giữa các tổ chức bảo lãnh Mỗi tổ chức bảo lãnh tham gia đợt chào
bán ra công chúng phải là một bên trong hợp đồng giữa các tổ chức bảo lãnh .
(Agreement A mong Underwriters - Viết tắt là AAU), đây là hợp đồng quy định các quyền và nghĩa vụ giữa các tổ chức bảo lãnh. AAU quy định tổ chức bảo lãnh chính thay mặt tổ hợp bảo lãnh trong việc phân phối chứng khoán. AAU cho phép tổ chức bảo lãnh chính lựa chọn hình thức bảo lãnh và thoả thuận các điều khoản trong hợp đồng bảo lãnh và thay mặt các tổ chức bảo lãnh thực hiện hợp đồng. TỔ chức bảo lãnh chính có quyền thoả thuận giá chiết khấu mà các tổ chức bảo lãnh sẽ mua của tổ chức phát hành, hoa hồng cho tổ chức bảo lãnh và đại lý trong việc bán chứng khoán, giá chào bán ra công chúng (POP) và tất cả các điều khoản khác liên quan giữa tổ chức phát hành và tổ chức bảo lãnh. TỔ chức bảo lãnh chính có quyền từ bỏ bất kỳ điều kiện nào trong hợp đồng bảo lãnh phát hành nếu không được đáp ứng vào thời điểm kết thúc. AAU cũng cho phép tổ chức bảo lãnh chính thực hiện các hoạt động cần thiết khác trong quá trình phân phối chứng khoán, chẳng hạn như việc phân phối bổ sung hay áp dụng các biện pháp để duy trì hay hoạt động ổn định vì lợi ích của tổ hợp, vay mượn cho tổ hợp các vấn đề tương tự khác. TỔ chức bảo lãnh chính cũng có quyền thay đổi giá POP hoặc thay đổi trị giá hoa hồng chiết
khấu sau khi hồ sơ đăng ký phát hành có hiệu lực. AAU quy định tổ chức bảo lãnh chính phân chia chứng khoán giữa các tổ chức bảo lãnh, xác định trị giá chứng khoán dành riêng để phân phối cho đại lý được lựa chọn và bán trực tiếp cho các nhà đầu tư có tổ chức. TỔ chức bảo lãnh chính có thể bán lại chứng khoán không bán được cho một tổ chức bảo lãnh trong tổ hợp hoặc chia lại số chứng khoán đó cho một tổ chức bảo lãnh khác. AAU cũng bao gồm cá(. điều khoản liên quan dấn hoa hồng của tổ chức bảo lãnh chính, của các tổ chức bảo lãnh thành viên và đại lý. Các quy định này bao gồm diều khoản chế tài để đảm bảo các chứng khoán dược phân phối cho các nhà đầu tư thực sự. Điều khoản chế tài quy định nếu chứng khoán do một tổ chức bảo lãnh bán lại cho chính tổ hợp trong thời hạn phân phối thì tổ chức bảo lãnh
này phải mua lại các chứng khoán đó theo giá quy định trong tổ hợp hoặc sẽ phải trả lại một khoản tiền không vượt quá hoa hồng trả cho các đại lý được lựa chọn. Thực tế điều khoản chế tài này được vận dụng nhằm triệt iêu lợi nhuận của tổ chức bảo lãnh nếu chứng khoán được bán cho thành viên của tổ hợp thay vì bán cho nhà đầu tư thực sự.
b. Hợp đồng bảo lãnh phát hành (hay cam kết bảo lãnh phát hành) Hợp đồng bảo lãnh (cam kết chắc chắn) là thoả thuận mà các tổ chức bảo lãnh đồng ý mua chứng khoán của tổ chức phát hành theo giá cố định để bán lại ra công chúng. Nội dung của hợp đồng bảo lãnh trước hết bao gồm các điều khoản thực thi, cam kết và xác nhận mà tổ chức phát hành phải thực hiện trước khi các tổ chức bảo lãnh có trách nhiệm mua chứng khoán. Hầu hết các điều khoản 1và cam kết này liên quan đến tính chính xác của các thông tin về tổ chức phát hành được ghi trong hồ sơ đăng ký phát hành và bản cáo bạch. Tuy nhiên, hợp đồng bảo lãnh cũng có một số điều khoản điều chỉnh hoạt động của tổ hợp bảo lãnh. Ổ chức bảo lãnh chính thay mặt tổ chức bảo lãnh thành viên thực hiện hợp đồng bảo lãnh, và một khi hợp đồng bảo lãnh đã thực hiện, nó có thể có cam kết của mỗi tồ chức bảo lãnh. Cam kết của mỗi tổ chức bảo lãnh là đơn vụ do vậy nghĩa vụ mua chứng khoán của mỗi tổ chức bảo lãnh chỉ giới hạn trong cam kết của mình. Thông thường hợp đồng bảo lãnh có điều khoản "stand ofr' quy định cấm tổ chức phát hành và một số cổ đông lớn
được bán chứng khoán của đợt chào bán trong một khoảng thời gian nhất định sau khi hợp đồng bảo lãnh có hiệu lực. Các điều khoản quy định về việc' mất khả năng thanh toán cũng là một nội dung của hợp đồng bảo lãnh. Các điều khoản này quy định ràng nếu một tổ chức bảo lãnh không mua các chứng khoán mà họ nhận bảo lãnh thì tổ chức bảo lãnh chính có thể thu xếp phân phối các chứng khoán đó. Hợp đồng bảo lãnh cũng có các diều khoản liên quan đến việc bồi thường và đóng góp. TỔ chức phát hành sẽ bồi thường cho các tổ chức bảo lãnh do việc thông tin sai lệch và thiếu các thông tin quan trọng trong hồ sơ đăng ký hát hành và bản cáo bạch. Về phần mình, mỗi tổ chức bảo lãnh sẽ bồi thường cho tổ chức phát hành khi làm sai lệch hoặc thiếu sót các thông tin quan trọng trong hồ sơ đăng ký phát hành và bản cáo bạch, nhưng chỉ trong phạm vi các thông tin sai lệch hoặc thiếu sót đó do các nhà bảo lãnh cung cấp
bằng văn bản cho tổ chức phát hành để đưa vào hồ sơ đăng ký và bản cáo bạch. Trách nhiệm bồi thường của c8c tổ chức bảo lãnh là tách biệt.
c Hợp đồng đại lý được lựa chọn Hợp đồng đại lý xác định mối quan hệ giữa các tổ chức
bảo lãnh và đại lý được lựa chọn tham gia đợt chào bán. Hợp đồng đại lý được ký kết giữa các tổ chức bảo lãnh với từng đại lý. Do vậy, các đại lý được lựa chọn không có mối
quan hệ hợp đồng với tổ chức phát hành. Nói chung, hợp đồng đại lý yêu cầu các đại lý bán chửng khoán ra công chúng theo giá POP. Việc bán chứng khoán cho các đại lý được thực hiện theo giá POP trừ đi phí phân phối.
3.2. Hoa hồng Việc phân chia hoa hồng của tổ chức phát hành lien quan đến việc khoá sổ bán chứng khoán và giải thể tổ hợp bảo lãnh. Cách thức nhận hoa hồng là động lực chi phối cố gắng bán chứng khoán của tổ chức bảo lãnh. Do vậy, hiểu rõ về cơ cấu của hoa hồng sẽ làm sáng tỏ nguyên do hoạt động của tổ hợp bảo lãnh phát hành. Trong trường hợp bảo lãnh chắc chắn, các tổ chức bảo lãnh mua chứng khoán của tổ chức phát hành với giá chiết khấu so với giá POP và bán lại các chứng khoán đó theo giá POP. TỔ chức bảo lãnh được hưởng phần chênh lệch giữa giá thanh toán chứng khoán và giá POP. Tuy
nhiên, các tổ chức bảo lãnh không hưởng khoản chênh lệch này đồng đều như nhau. AAU chia hoa hồng bảo lãnh thành 3 phần: phí quản lý, phí nhượng bán và phí bảo lãnh. Phần đầu tiên là phí quản lý (management fee) được trả cho tổ chức bảo lãnh chính trong việc hình thành và quản lý tổ hợp. Phí quản lý thường chiếm khoảng 20% tổng phí hoa hồng. AAU không quy định việc phân chia phí giữa các tổ chức đồng bảo lãnh chính, do đó việc phân chia phí thường gây tranh cãi. Phần thứ hai là phí nhượng bán (se/11ng concession) được trả cho các tổ chức bảo lãnh thực sự bán chứng khoán, phí này thường chiếm khoảng 60% tổng phí hoa hồng. Mỗi tổ chức bảo lãnh giữ lại một phần phí này theo tỷ lệ chứng khoán do họ phân phối. Phần còn lại 20% của hoa hồng bảo lãnh là phí bảo lãnh (underwritting compensation) được thanh toán cho các tổ chức bảo lãnh do việc chấp nhận rủi ro bảo lãnh. Phí bảo lãnh thực không đáng kể vì nó phải dùng để trang trải cho các chi phí của tổ hợp bảo lãnh để thực hiện
đợt chào bán. Các chi phí của đợt bảo lãnh bao gồm các phí tư vấn, chi phí roadshow, lãi tiền vay của tổ hợp, chi phí ổn định thị trường và các chi phí khác.
3.3. Thành lập tổ hợp bảo lãnh phát hành
a. Lựa chọn thành viên tổ hợp TỔ chức bảo lãnh chính thành lập tổ hợp bảo lãnh trong khoảng thời gian ngay sau khi nộp hồ sơ đăng ký phát hành lên uỷ ban chứng khoán. TỔ chức bảo lãnh chính phải quyết định quy mô tổ hợp và xác định các ngân hàng đầu tư tham gia. Một số tổ chức bảo lãnh chính mời nhiều ngân hang đầu tư tham gia tổ hợp vì họ cho rằng Bộ dụng tổ hợp bảo lãnh lớn sẽ phân chia tối đa rủi ro, đồng thời có thể xác định được các đối tượng tham gia đầu tư vào tổ chức phát hành. Ngoài ra, các ngân hàng này còn lập luận rằng những ngân hàng thích sử dụng tổ hợp bảo lãnh nhỏ là vì muốn thu được nhiều phí hơn là quan tâm đến quyền lợi tết nhất của khách hàng. CÓ nhũng tổ chức bảo lãnh kỹ tính hơn trong việc lựa chọn thành viên tổ hợp và chi một các công ty khác tham gia tổ hợp nếu có sự nghiên cứu về tổ chức phát hành hoặc có vị tử chiến lược hay có thể đóng vai trò ổn định thị trường.
TỔ hợp Trao lãnh chỉ thực sự hữu h cho đợt phát
hành này nếu các tổ chức tha gia phân phối cam kết thực hiện thành công đợt phát hành cũng như thành công trong tương lai của tổ chức phát hành sau đợt chào bán. Mặc dù việc sử dụng một trong nhiều bên tham gia bảo lãnh rất phổ biến với các tổ chức phát hành có tiếng tăm, nhưng việc phát hành lần đầu ra công chúng IPO và phát hành của các công ty đại chúng nhỏ vẫn thường được thực hiện thông qua tổ hợp bảo lãnh. Việc phân phối chứng khoán rộng rãi và nắm giữ chứng khoán của các ngân hàng đầu tư làm tăng sức ' mạnh của tổ chúc phát hành. TỔ chức bảo lãnh tham gia tổ hợp bảo lãnh phát hành
có thể do tổ chức bảo lãnh chính lựa chọn hoặc do các ngân hàng dấu tư tiếp xúc với các tổ chức bảo lãnh chính để tìm kiếm cơ hội tham gia. Dù trong trường hợp nào, tổ chức bảo lãnh chính sẽ xem xét cụ thể từng ứng cử viên trong tổ hợp để xác định ngân hàng đầu tư đó đã có nhà phân tích theo dõi về tổ chức phát hành hay chưa. TỔ chức bảo lãnh cũng được coi là có ích trong đợt phát hành nếu công ty có trụ sở hoặc chi nhánh gắn tổ chức phát hành. Trong một số đợt phát hành, chứng khoán chỉ được giao dịch trên thị trường OTC thì một tổ chức trước dây tham gia bảo lãnh sẽ không được mời tham gia tổ hợp nếu tổ chức đó có thị phần quan trọng đối với chứng
khoán của tổ chức phát hành. TỔ chức bảo lãnh chính có thể quyết định giao việc phân phối cho các công ty tạo lập thị trường nào tiếp tục đảm bảo thị trường tự do tránh khỏi các hạn chế giao dịch theo quy định 10b-6 tại Luật giao dịch chửng khoán 1934, quy định này được áp dụng đối với các
nhà tạo lập thị trường nếu tham gia với tư cách một tổ chức bảo lãnh hoặc đại lý phân phối được lựa chọn. Thông thường, tổ chức bảo lãnh chính sẽ yêu cầu nhà tạo lập thị trường không tham gia tổ hợp và đền bù cho họ bằng cách sẽ cho tổ chức này thử lại" nhiều chứng khoán hơn trong các đợt phát hành tương lai hoặc cung cấp dịch vụ tương tự cho một đợt Phát hành do tổ chức đó làm bảo lãnh Ngoài việc thiết lập tổ hợp bảo lãnh, tổ chức bảo lãnh chính có thể thành lập nhóm bán, bao gồm các đại lý phân phối. Thông thường các đại lý phân phối được xác định sau khi tổ hợp được thiết lập, bao gồm các công ty thực sự quan tâm tham gia đợt phát hành. Một tổ chức bảo lãnh có thể được coi là thành viên nhóm bán các chứng khoán được Phân chia cho các tổ chức bảo lãnh khác.
b. Tham gia tổ hợp Mỗi tổ chức bảo lãnh tham gia đợt phát hành ra công chúng phải ký kết một hợp đồng ÀAU. Trong những năm gần đây, hầu hết các ngân hàng đầu tư bảo lãnh nhiều đợt phát hành ra công chúng đã phát triển việc sử dụng hợp đồng phát hành tổng thể giữa các nhà phát hành (hợp đồng tổng thể AAU). Mỗi ngân hàng đầu tư có mẫu hợp đồng tổng thể AAU riêng trong đó quy định mối qu8n hệ giữa các tổ chức bảo lãnh tham gia đợt phát hành. Hợp đồng tổng thể AAU của các ngân hàng đầu tư lớn thường ít có sự khác nhau. Điểm khác biệt duy nhất giữa hợp đồng tổng thể AAU và các hợp đồng AAU khác là hợp đồng tổng thể AAU quy định các thủ tục cho phép các ngân hàng đầu tư tham gia bảo lãnh một đợt phát hành cụ thể mả không cần thực hiện hợp đồng AAU. Mỗi ngân hàng đầu tư có hợp đồng tổng thể AAU tiêu chuẩn phải phân phát các hợp đồng này cho các tổ chức bảo lãnh tham gia. Các tổ chức bảo lãnh này thực hiện theo mẫu hợp đồng tổng thể AAU của từng nhà bảo lãnh và mỗi tổ chức bảo lãnh giữ các hợp đồng tổng thể AAU dã thực hiện trong hồ sơ của mình. Khi một tổ chức bảo lãnh chính sử dụng hợp đồng tổng thể AAU thì tổ chức này mời các tổ chức bảo lãnh khác tham gia đợt phát hành bằng cách gửi thư cho các tổ chức bảo lãnh, trong thư nêu rõ các điều khoản chung của đợt phát hành. Đồng thời đưa ra các yêu cầu thay đổi (nếu có) trong hợp đồng tổng thể AAU sử dụng
trong đợt phát hành này. Mỗi ngân hàng đầu tư được mời tham gia tổ hợp có thể trở thành tổ chức bảo lãnh bằng cách gửi thư chấp nhận cho tổ chức bảo lãnh chính. Khi từng thành viên tổ hợp nêu rõ số lượng chửng khoán được phân chia, hoa hồng bảo lãnh, phí nhượng bán, phí phân phối và các điều khoản quan trọng khác trong đợt phát hành mà trước dây thành viên tổ hợp chưa thoả thuận. Ngoài các hợp đồng tổng thể AAU, mỗi ngân hàng đầu tư cũng có một bản thoả thuận tổng thể về các đại lý phân phối được lựa chọn. Về cách thức, hợp 'đồng này cũng giống như hợp đồng tổng thể AÀU nhưng chỉ liên quan đến các đại lý phân phối tham gia đợt phát hành.
3.4. Phân phối chứng khoán
a. Trước khi nộp hồ sơ đăng ký phát hành
Luật chứng khoán 1933 cấm bất kỳ người nào chào bán và cấm đại lý phân phối được mời mua một loại chứng khoán sẽ được phân phối ra công chúng trước khi hồ sơ đăng ký phát hành đã được nộp cho SEC. Về hình thức, quy định này cấm tổ chức phát hành chào bán chứng khoán cho tổ chức bảo lãnh để chào bán ra công chúng. Tuy nhiên, Luật chứng khoán quy định trường hợp miễn trừ cho phép có các thoả thuận sơ bộ giữa tổ chức phát hành và tổ chức bảo lãnh hoặc giữa các tổ chức bảo lãnh trong mối quan hệ hợp đồng với tổ chức phát hành. Việc miễn trừ này cho phép tổ chức bảo lãnh chính thành lập nhóm bảo lãnh (không phải nhóm bán), trước khi hồ sơ được nộp lên SEC. Tuy nhiên, hoạt động tiếp thỉ chính thức chưa dược bắt đầu và thư mời tham gia tổ hợp chưa được gửi đi cho tới khi nào hồ sơ đăng ký dã dược nộp. Với một số điều kiện cụ thể, Luật chứng khoán cho phép các ngân hàng đầu tư chuẩn bị báo cáo về tổ chức phát hành theo thông lệ của ngân hàng đầu tư vả phân phát các báo cáo với các công ty khác trong cùng ngành. TỔ chức phát hành được phép tiếp tục công bố các báo cáo định kỳ và tham dự các hội thảo ngành nhưng không được thảo luận vấn đề liên quan dấn đợt phát hành.
b. Mời chào chứng khoán (roadshow) Ngay sau khi hồ sơ đầu ; ký phát hành dược nộp lên SEC, tổ chức bảo lãnh chính và tổ chức phát hành thực hiện roadshow. Roadshow là việc mời chào chứng khoán bằng cách tổ chức bảo lãnh chính và các lãnh đạo của tổ chức phát hành đi tới các thị trường quan trọng, nơi dự kiến bán chứng khoán để giới thiệu về đợt phát hành cho các nhà đầu tư có tổ chức và các nhà môi giới địa phương. Roadshow thường được thực hiện trong các đợt phát hành lần đầu ra
công chúng IPO nhưng ít được sử dụng trong các đợt chào bán của các tổ chức phát hành dã quen thuộc. Khi tiến hành roadshow, tổ chức bảo lãnh chính thu thập mối quan tâm về chứng khoán phát hành, công việc này gọi là "lập sồ'. Việc tiến hành roadshow được kết thúc vào thời điểm hồ sơ đăng ký phát hành được SEC công bố có hiệu lực và khi đó tổ chức bảo lãnh có thể xác nhận hợp pháp việc bán chứng khoán.
c Việc lập sổ Trong quá trình lập sổ, tổ chức bảo lãnh chính cố gắng cân bằng giữa các nhà đầu tư có tổ chức và các nhà đầu tư riêng lẻ. Mối quan tâm của các tổ chức lớn có thể hỗ trợ giá chứng khoán trong và sau thời gian phân phối, song việc phân phối rộng rãi thường có lợi cho tổ chức phát hành. Việc bán chứng khoán cho các định chế dầu tư do tổ
chức bảo lãnh chính bán trực tiếp. Ban đầu cơ chế này được sử dụng để tránh việc các tổ chức bảo lãnh phải gửi nhiều xác nhận về việc bán chứng khoán cho các định chế đầu tư chưa được mua đủ số chứng khoán theo yêu cầu tại một tổ chức bảo lãnh đơn lẻ. Việc gửi nhiều xác nhận được loại trừ bằng cách cho phép các tổ chức bảo lãnh chính đứng ra bán chửng khoán cho các định chế đầu tư và cho phép các đinh chế dầu tư mua chứng khoán chỉ định tổ chức bảo lãnh dược hưởng hoa hồng nhượng bán trên Hiện nay cơ chế bán chứng khoán cho các đinh chế đầu tư (Pot) được sử dụng nhằm mục dịch tiếp thị nhiều hơn là giúp thuận tiện cho việc quản lý. TỔ chức bảo lãnh chính sử dụng Pot để giữ mối quan tâm của các định chế đầu tư bằng cách kiểm soát số lượng chứng khoán bán cho các định chế đầu tư. Mặc dù các định chế đầu tư mua chứng khoán ngoài Pot có thể chỉ định tổ chức bảo lãnh nhận phí nhượng bán, nhưng thực tế tổ chức bảo lãnh chính duy nhất sẽ nhận được khoảng 70% phí nhượng bán từ việc bán theo cơ chế Pot. Trong đợt phát hành có hai hoặc nhiều tổ chức bảo lãnh chính, các tổ chức bảo lãnh chính này sẽ nhận được khoảng 80% phí nhượng bán từ Pot. Lý do các tổ chức bảo lãnh chính nhận được nhiều phí nhượng bán từ việc bán Pot là vì nhân viên tiếp thị của tổ chức bảo lãnh chính thuyết phục các định chế đầu tư này rằng nếu họ chỉ định cho tổ chức bảo lãnh nhận phí nhượng bán,
họ sẽ được phân chia nhiều chứng khoán hơn mức bình thường. Việc bán chứng
khoán cho các nhà đầu tư cá thể do các công ty môi giới phục vụ cho mỗi tổ chức bảo lãnh thực hiện. Hầu hết các tổ chức bảo lãnh phân phát tài liệu nội bộ cho bộ phận tiếp .thị trong đó mô tả về tổ chức phát hành, quá trình kinh doanh, đồng thời mô tả' về