Nghiệp vụ môi giới chủ yếu được áp dụng cho các sản phẩm CK niêm yết, trong đó NHĐT đóng vai trò trung gian nhận lệnh và khớp lệnh cho các khách hàng. Nghiệp vụ đầu tư được chia thành nghiệp vụ đầu tư cho khách hàng và nghiệp vụ tự doanh.
Nghiệp vụ đầu tư cho khách hàng được áp dụng cho các sản phẩm CK giao dịch trên thị trường OTC. Là nhà tạo lập thị trường với chức năng tạo thanh khoản, NHĐT tiến hành các giao dịch mua bán với các khách hàng một cách thụ động hoặc chủ động để tìm kiếm các khoản chênh lệch giá.
Nghiệp vụ đầu tư tự doanh mang tính rủi ro cao hơn vì hai lý do: ngân hàng mang vốn của mình ra kinh doanh và nghiệp vụ này áp dụng cho cả CK niêm yết và không niêm yết. Khi đó, NHĐT tìm kiếm lợi nhuận biến động giá bằng cách chủ động nắm giữ trạng thái “mua” hoặc “bán” và đánh cược với sự biến động của thị trường.
c. Nghiệp vụ nghiên cứu
Đây là nghiệp vụ do các nhân viên nghiên cứu thực hiện nhằm theo dõi tình hình hoạt động của các loại CK trên thị trường để giúp các nhà đầu tư có thể ra được các quyết định mua bán của mình đúng lúc.
Các sản phẩm nghiên cứu rất đa dạng, bao gồm các báo cáo nghiên cứu chung như kinh tế vĩ mô, nghiên cứu ngành, nghiên cứu chiến thuật đầu tư và nghiên cứu sản phẩm. Ngoài ra, nghiệp vụ nghiên cứu còn bao gồm việc xây dựng, phát triển các công cụ phân tích và quản lý danh mục đầu tư cho khách hàng.
d. Nghiệp vụ ngân hàng bán buôn
Nghiệp vụ ngân hàng bán buôn là một loại nghiệp vụ đầu tư song có đối tượng chủ yếu là các sản phẩm thay thế, bao gồm đầu tư bất động sản, cho vay sử dụng đòn bẩy tài chính, các thỏa thuận tín dụng lớn như cho vay đồng tài trợ và tài trợ dự án.
Một mảng quan trọng của ngân hàng bán buôn thuộc dòng sản phẩm CK vốn là đầu tư vốn tư nhân, là việc ngân hàng đầu tư vào các doanh nghiệp chưa niêm yết có tiềm năng để phát triển làm tăng giá trị thông qua tái cơ cấu tài
chính và hoạt động. Việc đầu tư vào các doanh nghiệp vốn tư nhân có thể thực hiện từ giai đoạn khởi nghiệp đến các giai đoạn trưởng thành và phát triển của doanh nghiệp.
Có thể bạn quan tâm!
- Các định chế tài chính và vai trò đối với thị trường chứng khoản Việt Nam - thực trạng và đề xuất - 2
- Căn Cứ Vào Mức Độ Thực Hiện Chức Năng Trung Gian
- Hoạt Động Trên Thị Trường Chứng Khoán
- Thực Trạng Hoạt Động Của Thị Trường Chứng Khoán Việt Nam Hiện Nay
- Quy Mô Niêm Yết Sở Giao Dịch Chứng Khoán Hà Nội (Tính Tới Tháng 3/2010)
- Giới Thiệu Các Quỹ Đầu Tư Đã Niêm Yết Trên Ttck Việt Nam (Tính Tới Tháng 3/2010)
Xem toàn bộ 105 trang tài liệu này.
Nghiệp vụ ngân hàng bán buôn là một hoạt động tự doanh mang tính rủi ro rất cao vì thời hạn nắm giữ sản phẩm thường dài hơn so với nghiệp vụ đầu tư các sản phẩm CK truyền thống.
e. Nghiệp vụ quản lý đầu tư
Do mang lại thu nhập ổn định và mức rủi ro thấp, đây là một nghiệp vụ dần trở thành một mảng kinh doanh quan trọng của NHĐT. Quản lý đầu tư có thể phân thành nghiệp vụ quản lý tài sản và nghiệp vụ quản lý gia sản.
Quản lý tài sản bao gồm quản lý quỹ đầu tư, quản lý danh mục đầu tư cho các khách hàng tổ chức.
Quản lý gia sản hay dịch vụ ngân hàng cá nhân (private banking) bao gồm dịch vụ tư vấn và quản lý tài sản cho các khách hàng có thu nhập cao.
f. Nghiệp vụ nhà môi giới chính
Nghiệp vụ nhà môi giới chính ra đời khắc phục được việc sử dụng cùng một lúc nhiều nhà môi giới của các quỹ đầu cơ dẫn đến sự phân tán các nguồn lực trong việc thực hiện các hoạt động hỗ trợ. Các NHĐT lớn sẽ tận dụng thế mạnh của mình với hệ thống cơ sở hạ tầng sẵn có để cung cấp một loạt dịch vụ từ A-Z cho các quỹ đầu cơ, thậm chí cung cấp một số dịch vụ hỗ trợ miễn phí giúp các quỹ này có thể tập trung vào công việc kinh doanh chính là đầu tư. Việc sử dụng nhà môi giới chính không có nghĩa là các quỹ đầu cơ không quan hệ với các nhà môi giới khác. Điều này chỉ có nghĩa là các quỹ tiến hành thuê ngoài các hoạt động không cơ bản và tập trung hóa việc xử lý giao dịch cho nhà môi giới chính để họ thay mặt ký kết thực hiện các giao dịch với các nhà môi giới khác.
III. Vai trò của các định chế tài chính đối với thị trường chứng khoán
1. Ngân hàng thương mại
NHTM cùng với các CTCK trực thuộc có vai trò quan trọng đối với TTCK trên nhiều phương diện: tạo hàng hoá, làm tổ chức trung gian, cung cấp thông tin, điều tiết cung cầu và quản lý các ĐCTC trên thị trường.
1.1. Tạo hàng hóa cho thị trường chứng khoán
Vai trò của NHTM trong việc tạo ra hàng hoá cho TTCK thể hiện dưới hai góc độ:
Dưới góc độ trực tiếp, các NHTM cổ phần tham gia với tư cách là nhà phát hành cổ phiếu để tạo nguồn vốn khi mới thành lập hoặc vốn bổ sung thêm trong quá trình hoạt động. Bên cạnh đó, tất cả các loại hình NHTM đều có thể phát hành trái phiếu để huy động vốn từ nền kinh tế và các CTCK trực thuộc còn bán các loại CK khác như: trái phiếu chính phủ, chứng quyền, trái quyền, các hợp đồng tương lai, hợp đồng quyền chọn... Những việc này đã tạo cho TTCK một khối lượng hàng hoá rất lớn ở thị trường thứ cấp.
Dưới góc độ gián tiếp, CTCK trực thuộc NHTM với tư cách là một tổ chức trung gian thực hiện các nghiệp vụ trung gian chứng khoán như môi giới CK, bảo lãnh phát hành, tư vấn đầu tư CK,... đã góp phần không nhỏ giúp các tổ chức kinh tế khác phát hành CK, tạo sự đa dạng về hàng hoá cho TTCK.
1.2. Trung gian chứng khoán
Trên một TTCK quy mô và đầy biến động, rất khó để các nhà đầu tư tìm được đối tác cần mua bán chứng khoán để giao dịch với nhau. Hơn nữa. không phải nhà đầu tư nào cũng được trang bị đủ kiến thức, tích lũy đủ kinh nghiệm và có đủ thông tin để đầu tư thành công và thu được những khoản lợi nhuận mong muốn. Do vậy, với tư cách là một tổ chức trung gian, NHTM sẽ giúp hai bên gặp nhau thông qua các nghiệp vụ của mình trên TTCK. Ví dụ, các CTCK trực thuộc khi thực hiện môi giới chứng khoán có hai nhiệm vụ chính là: nhiệm vụ cung cấp thông tin và tư vấn khách hàng; đồng thời, cung cấp các sản phẩm và dịch
vụ tài chính, giúp khách hàng thực hiện giao dịch theo yêu cầu và vì lợi ích khách hàng.
NHTM có nhiều lợi thế để hoạt động như một trung gian tài chính trên TTCK như: nghiệp vụ quản lý tài khoản tiền gửi tạo tiền đề cho việc tích luỹ vốn để mua bán CK, kinh nghiệm về hoạt động tín dụng tạo điều kiện cho việc mua bán CK được thuận lợi khi có nhu cầu đầu tư và đặc biệt là kinh nghiệm về tổ chức thanh toán giúp NHTM thực hiện tốt việc chi trả trong mua bán chứng khoán.
1.3. Điều chỉnh cung cầu chứng khoán
NHTM với hai hoạt động cơ bản nhất là nhận tiền gửi và cho vay có tác động rất lớn đến hoạt động của TTCK, mà cụ thể là giá cả, cung và cầu của CK trên thị trường. Trên thực tế, nhà đầu tư quyết định đầu tư vào lĩnh vực nào có khả năng sinh lời và mức độ rủi ro chấp nhận được nên lãi suất tiền gửi và cho vay của các NHTM cũng có tác động không nhỏ đến mức cung cầu CK trên thị trường và giá của những CK đó.
Một vai trò khác của NHTM đối với cung cầu CK trên thị trường chứng khoán đó là cung cấp cơ chế giá cho các khoản đầu tư. Trên thị trường thứ cấp, NHTM sẽ tạo cơ chế giá CK thông qua các Sở giao dịch. CTCK trực thuộc giúp nhà đầu tư đánh giá giá trị khoản đầu tư của mình, sau đó toàn bộ các lệnh mua bán CK được tập hợp tại Sở, và trên cơ sở đó giá CK sẽ được xác định theo quy luật cung cầu. Trên thị trường sơ cấp, khi thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh phát hành CK, CTCK trực thuộc còn thực hiện vai trò tạo cơ chế giá CK thông qua việc xác định và tư vấn cho tổ chức phát hành mức giá phát hành hợp lý đối với các chứng khoán trong đợt phát hành. Ngoài ra, thông qua hoạt động tự doanh, các CTCK này còn can thiệp vào thị trường, góp phần điều chỉnh giá CK.
1.4. Cung cấp thông tin trên thị trường chứng khoán
Hoạt động môi giới CK của các CTCK trực thuộc luôn đi kèm hoạt động tư vấn nên còn cung cấp thông tin theo yêu cầu của khách hàng, thông tin về triển vọng của các CK trong tương lai, thông tin về chính sách tiền tệ của Chính phủ có liên quan đến các khoản đầu tư mà khách hàng cân nhắc… Bên cạnh đó, các
NHTM cũng cung cấp các thông tin rất đáng tin cậy về tình hình diễn biến thị trường giúp các cơ quan quản lý thị trường có những điều chỉnh phù hợp nhất.
1.5. Định chế quản lý thị trường chứng khoán
Chính hoạt động của các CTCK trực thuộc NHTM và các nhân viên môi giới của họ là một yếu tố góp phần hoàn thiện môi trường pháp lý cho hoạt động kinh doanh CK. Song song với việc thực hiện các nghiệp vụ, họ sẽ giúp người đầu tư luôn tuân thủ pháp luật trong quá trình tìm kiếm lợi ích, đồng thời cũng kịp thời phản ánh cho các nhà làm luật kịp thời chỉnh sửa những bất cập trong các văn bản quy phạm pháp luật.
2. Quỹ đầu tư chứng khoán
2.1. Tăng lượng cung chứng khoán và tạo sự đa dạng về hàng hóa góp phần phát triển thị trường sơ cấp
QĐTCK có vai trò quan trọng trong quá trình phát triển của thị trường sơ cấp với việc là một tổ chức phát hành thu hút vốn bằng cách phát hành các chứng chỉ quỹ. Việc QĐTCK phát hành các chứng chỉ quỹ hay cổ phiếu quỹ đương nhiên làm tăng cung cho TTCK vì đây là các hàng hóa được giao dịch trên thị trường và cũng vì phương thức đầu tư chuyên nghiệp và khoa học của quỹ sẽ tạo cho công chúng thói quen đầu tư. Ngoài ra, việc đầu tư vào CK của quỹ đã tạo ra cầu cho TTCK, làm cho CK của các tổ chức phát hành khác được tiêu thụ dễ dàng.
2.2. Góp phần bình ổn giá cả giao dịch trên thị trường thứ cấp
Với tư cách là nhà đầu tư trên thị trường, QĐTCK phải dành phần lớn giá trị tài sản để đầu tư vào TTCK theo danh mục đã lựa chọn. Do tập trung một lượng vốn lớn từ nhiều nguồn nhàn rỗi nhỏ lẻ trong xã hội, QĐTCK có khả năng mua bán với khối lượng lớn một loại CK nào đó nên thường ảnh hưởng lớn tới sự biến động của TTCK. Nó góp phần bình ổn giá cả giao dịch trên thị trường thứ cấp, giúp cho sự phát triển của thị trường này thông qua các hoạt động đầu tư chuyên nghiệp với các phương pháp đầu tư khoa học.
3. Công ty bảo hiểm
ĐCTC sẽ thực sự phát huy hết sức mạnh của nó khi thị trường tài chính với những cơ chế hoàn chỉnh được xác lập mà nền tảng là TTCK. Thật vậy, TTCK đóng góp một phần vào sự phát triển của thị trường bảo hiểm nói chung và của các CTBH nói riêng, trong khi CTBH với hoạt động đầu tư CK hiệu quả cũng tác động tích cực trở lại TTCK.
3.1. Khơi dòng một nguồn vốn lưu chuyển lớn, bổ sung vốn cho thị trường chứng khoán
CTBH có khả năng tích tụ và tập trung vốn từ hàng ngàn hợp đồng bảo hiểm nhỏ lẻ của tất cả các nghiệp vụ thực hiện thành một nguồn vốn khổng lồ. Chỉ đứng sau NHTM về độ lớn của nguồn vốn huy động nên CTBH cùng với các NHTM và các tổ chức tín dụng khác thực hiện tốt vai trò cung ứng vốn cho TTCK. Hơn nữa, do tập trung được nhiều nguồn vốn từ khách hàng tham gia bảo hiểm, từ các cá nhân nhỏ lẻ đến các pháp nhân quan trọng, CTBH đầu tư hiệu quả trên TTCK chứng tỏ ĐCTC này có khả năng thu hút và đáp ứng các nhu cầu về vốn, thúc đẩy sự luân chuyển và sử dụng vốn trên thị trường.
3.2. Mở rộng các đối tượng tham gia thị trường
Việc CTBH tham gia đầu tư trên TTCK cho thấy trong khuôn khổ luật pháp điều chỉnh, nhiều chủ thể trong một nền kinh tế có thể tìm đến một nguồn huy động vốn quy mô và hiệu quả. TTCK với những hoạt động luân chuyển vốn nhịp nhàng có thể giúp Chính phủ giảm thâm hụt ngân sách, thực thi chính sách tiền tệ, các doanh nghiệp huy động được vốn để đầu tư phát triển, cải thiện tình hình tài chính, nâng cao khả năng quản lý và công chúng cũng được hưởng những thành quả đạt được của nền kinh tế.
Hơn hết, CTBH còn có vai trò trong việc giảm nguy cơ tập trung quyền lực trong lĩnh vực tài chính. Bởi lẽ, CTBH có quy mô vốn hoạt động đầu tư CK lớn nên Nhà nước càng cần thiết phải giám sát sự đa dạng hóa danh mục đầu tư của định chế này nhằm ngăn chặn sự kiểm soát, khống chế của CTBH với những
tổ chức tài chính khác và tránh hiện tượng độc quyền trong việc thâu tóm những hoạt động kinh doanh lớn thông qua hoạt động đầu tư này.
3.3. Góp phần xã hội hóa hoạt động đầu tư chứng khoán
Gắn liền với vai trò mở rộng đối tượng tham gia trên TTCK, CTBH đóng góp đáng kể cho việc xã hội hóa hoạt động đầu tư CK thông qua việc bảo vệ quyền lợi của người tham gia bảo hiểm.
Dưới sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước đối với hoạt động bảo hiểm, hoạt động của CTBH bảo toàn được nguồn vốn đầu tư, tránh tình trạng thất thoát vốn và đảm bảo được quyền lợi cho những người tham gia bảo hiểm. Người được bảo hiểm không chỉ được cam kết chi trả trong trường hợp rủi ro xảy ra mà còn nhận được những khoản lợi nhuận từ kết quả đầu tư trên TTCK của CTBH.
4. Công ty chứng khoán và ngân hàng đầu tư
Công ty chứng khoán có thể thực hiện cùng một lúc nhiều nghiệp vụ nên có ảnh hưởng trực tiếp đến các chủ thể tham gia thị trường và đóng vai trò quan trọng đối với thị trường chứng khoán.
4.1. Tạo ra cơ chế huy động vốn cho doanh nghiệp và nền kinh tế
Thông qua CTCK, các nhà đầu tư tiếp cận được CK của các tổ chức phát hành, sau đó các CK này được lưu thông trên thị trường. Nhờ sự có mặt của CTCK mà những nguồn vốn nhỏ lẻ, nhàn rỗi được tập hợp thành một lượng vốn lớn để đầu tư vào các doanh nghiệp và nền kinh tế.
4.2. Góp phần ổn định giá cả chứng khoán trên thị trường
Bằng hoạt động tự doanh, CTCK đóng vai trò là nhà tạo lập thị trường do đó góp phần bình ổn giá cả CK và tạo dựng thị trường cho các CK mới phát hành lần đầu.
4.3. Góp phần tạo ra sản phẩm và dịch vụ mới trên thị trường
Vai trò này thể hiện rõ trong hoạt động môi giới của CTCK. Cụ thể, các nhân viên môi giới của công ty tiếp xúc trực tiếp với khách hàng nên nắm bắt được nhu cầu và chuyển sang cho bộ phận nghiên cứu, phát triển sản phẩm của công ty rồi từ đó các sản phẩm dịch vụ mới ra đời. Kết quả là có thêm nhiều sản
phẩm dịch vụ, danh mục khách hàng đa dạng và phí dịch vụ ngày càng giảm góp phần thu hút được nhiều nguồn vốn hơn.
4.4. Giúp cơ quan quản lý thị trường quản lý, giám sát các hoạt động trên thị trường một cách có hiệu quả
CTCK vừa là người bảo lãnh phát hành các CK mới vừa là trung gian mua bán và thực hiện các giao dịch trên thị trường do vậy nắm bắt được hầu hết thông tin về nhà phát hành, thông tin liên quan đến các giao dịch mua bán CK… Ngoài việc trực tiếp giúp các nhà đầu tư tiếp cận được những nguồn thông tin thị trường sâu sát và kịp thời, CTCK còn có nghĩa vụ cung cấp chính những thông tin đó cho các cơ quan quản lý nhằm mục tiêu quản lý thị trường. Nhờ vậy, các cơ quan quản lý thị trường có thể kiểm soát và ngăn chặn các hành vi thao túng, lũng đoạn, bóp méo thị trường, nắm bắt được thực trạng thị trường để từ đó đưa ra các chính sách, biện pháp phát triển phù hợp.
4.5. Góp phần giảm chi phí giao dịch, giảm rủi ro và nâng cao hiệu quả cho các nhà đầu tư
Việc mua bán CK thông qua CTCK sẽ giúp nhà đầu tư tiết kiệm được chi phí giao dịch do đã giảm đáng kể chi phí tìm kiếm đối tác. Nhờ có CTCK, các nhà đầu tư cũng bớt được rủi ro trong quá trình mua bán CK khi người mua được bảo đảm nhận được CK thật còn người bán được bảo đảm thực nhận tiền sau khi giao CK.
Bên cạnh đó, CTCK còn giúp nhà đầu tư tìm kiếm các cơ hội đầu tư có hiệu quả, sử dụng kiến thức đầu tư CK thực sự và tham gia thị trường một cách kịp thời, thuận lợi, do đó góp phần kích cầu cho TTCK.