rõ rằng Đảng ta không những đang tiếp tục đẩy nhanh quá trình CPH DNNN, mà còn chuyển sang giai đoạn nâng cao cả về chất trên cả ba mặt:
- Từ CPH chỉ là những doanh nghiệp nhỏ và làm ăn thua lỗ sang CPH cả những doanh nghiệp lớn, các tổng công ty, các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, kể cả những doanh nghiệp trước đây Nhà nước độc quyền.
- Từ CPH DNNN trong một số lĩnh vực rất hạn chế sang CPH các doanh nghiệp ở hầu hết các lĩnh vực kinh tế, văn hoá.
- Từ hình thức CPH khép kín trong nội bộ là chính sang bán ra bên ngoài thị trường, kể cả bán cho các nhà đầu tư nước ngoài.
CPH DNNN ở nước ta hiện nay đang là vấn đề thời sự cấp thiết. Quản lý Doanh nghiệp cổ phần là công việc mới mẻ và phức tạp, đòi hỏi các nhà quản lý phải nắm vững đặc điểm đặc thù của Doanh nghiệp cổ phần, vận dụng lý luận để xử lý các tình huống kinh tế trong quá trình sản xuất kinh doanh nhằm đạt hiêụ quả kinh tế cao.
Trong sản xuất, Doanh nghiệp đòi hỏi sự tồn tại một lượng vốn tiền tệ như một tiền đề bắt buộc. Không có vốn sẽ không có bất kỳ công việc sản xuất kinh doanh nào. Quy mô sản xuất kinh doanh càng lớn, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật càng nhiều, đòi hỏi càng nhiều vốn.
Trong nền kinh tế thị trường, để tồn tại và phát triển, nhu cầu tập trung vốn tạo điều kiện cho những kinh doanh lớn, áp dụng kỹ nghệ và công nghệ tiên tiến, tăng sức cạnh tranh là điều tất yếu. Điều đó dẫn đến sự hình thành các công ty cổ phần.
Ở nước ta hiện nay, chủ trương phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Do đó, các công ty cổ phần ra đời là xu hướng tất yếu. Sự hình thành các công ty cổ phần là hướng đi đúng đắn để nền kinh tế nước ta hoà nhập với kinh tế thế giới, để thu hút vốn đầu tư nước ngoài, tập trung vốn đầu tư trong nước. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, nước ta đang rất cần vốn và công
Có thể bạn quan tâm!
- Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước tại Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế - thực trạng và giải pháp - 7
- Những Mặt Được Và Những Mặt Chưa Được Của Quá Trình Cph Dnnn Ở Nước Ta Trong Thời Gian Qua
- Số Lượng Doanh Nghiệp Cph Tuy Có Tăng Đáng Kể, Nhất Là Những Năm Gần Đây Nhưng So Với Yêu Cầu Đổi Mới Còn Hạn Chế, Tốc Độ Cph Còn Chậm, Thời Gian
- Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước tại Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế - thực trạng và giải pháp - 11
- Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước tại Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế - thực trạng và giải pháp - 12
Xem toàn bộ 104 trang tài liệu này.
nghệ mới, đồng thời điều đó cũng phù hợp với xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế.
Công tác CPH Doanh nghiệp là quá trình tạo ra, thành lập các công ty cổ phần. Với mục đích thu hút vốn và tạo việc làm cho xã hội do đó cho nên công tác phổ biến, tuyên truyền chủ trương đường lối chính sách CPH Doanh nghiệp của Đảng và Nhà nước phải được quán triệt sâu sắc trong cán bộ, Đảng viên, trong toàn thể nhân dân. Các cấp uỷ Đảng và chính quyền phải quán triệt và tuyên truyền, giải thích trong nhân dân chủ trương, chính sách của Đảng về CPH DNNN. Nhằm làm cho mọi người hiểu rõ được mục đích, ý nghĩa, ích lợi và trách nhiệm của mình đối với chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước đề ra. Từ đó mọi người sẽ tích cực hưởng ứng tham gia một cách nhiệt tình và với tinh thần tự nguyện, thoải mái, để được đóng góp một phần công sức nhỏ bé của mình vào công cuộc đổi mới đất nước.
2. CPH kết hợp với hoàn thiện thị trường chứng khoán
Phát triển, hoàn thiện các yếu tố của kinh tế thị trường, nhất là thị trường chứng khoán. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách nhằm khuyến khích kinh tế tư nhân, kinh tế cá thể phát triển; khuyến khích các hình thức liên kết, liên doanh với Nhà nước; Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp của họ; tạo lập đồng bộ các loại thị trường, đặc biệt là phát triển thị trường chứng khoán. Nhà nước cần tạo mọi điều kiện để hoạt động của Trung tâm giao dịch chứng khoán ngày càng phát triển thuận lợi, hoàn thiện các công cụ quản lý vĩ mô. Điểm mấu chốt là tăng tiềm lực và lành mạnh hoá nền tài chính quốc gia, hoàn thiện chính sách tài chính tiền tệ và hoạt động ngân hàng, ổn định tiền tệ, kiềm chế lạm phát và giảm phát, nâng cao năng lực quản lý kinh tế thị trường của các cấp, các ngành từ Trung ương đến địa phương, điều chỉnh và hoàn thiện hệ thống luật pháp về kinh tế thị trường, đồng thời phải hướng dẫn, kiểm tra nhằm bảo đảm thực hiện nghiêm túc các Luật đã ban hành.
3. Hoàn thiện vấn đề định giá doanh nghiệp.
Định giá doanh nghiệp là một nội dung quan trọng trong quá trình CPH, mang tính kỹ thuật nghiệp vụ cơ bản nhưng rất phức tạp khó khăn.
Các cơ quan quản lý các cấp cần tiến hành khẩn trương, chỉ đạo kịp thời và cụ thể ngay từ khi bắt đầu để các ngành, các đơn vị vận dụng thống nhất về nguyên tắc và phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp.
Các văn bản hướng dẫn phải thống nhất và phù hợp với chỉ đạo của Chính phủ để tạo ra sự công bằng và khách quan giữa các doanh nghiệp.
Hướng dẫn phương pháp định giá DN thống nhất trong từng loại hình sản xuất kinh doanh để đảm bảo sự nhất quán và công bằng giữa các DN.
Nghiên cứu sửa đổi quy định về Hội đồng xác định giá trị doanh nghiệp theo hướng nhanh chóng và gọn nhẹ. Việc thành lập chậm Hội đồng xác định giá trị DN sẽ ảnh hưởng đến kết quả xác định giá trị doanh nghiệp do thời gian kiểm kê và thời gian thẩm tra xác định giá trị doanh nghiệp cách xa nhau. Tiến độ CPH cũng vì thế bị chậm lại.
Bổ sung hệ thống các văn bản hướng dẫn việc xác định chất lượng còn lại của tài sản làm cơ sở cho việc định giá như các phương pháp hoặc quy chuẩn để xác định hao mòn hữu hình, hao mòn vô hình của các thiết bị, nhà cửa, phương pháp xác định giá trị quyền sử dụng đất, lợi thế do vị trí kinh doanh, giá trị thương hiệu.
Đổi mới cách xác định giá trị doanh nghiệp gắn với đổi mới phương thức bán cổ phiếu đối với doanh nghiệp CPH. Theo đó, cần mở rộng hình thức định giá thông qua các tổ chức thẩm định giá, kiểm toán, tư vấn tài chính đối với doanh nghiệp vừa và lớn, đối với tổng công ty nên thuê các tổ chức định giá nước ngoài, đồng thời gắn quá trình CPH với niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán, đối với doanh nghiệp có quy mô nhỏ nên dùng hình thức đấu giá doanh nghiệp thông qua hội đồng đấu giá, hoặc dùng hình thức định giá thông qua hội đồng (có chuyên môn), hoặc có thể giao cho doanh
nghiệp tự định giá, trừ cơ quan có quyết định CPH công bố. Các chính sách đối với người lao động vẫn phải được giải quyết thoả đáng theo nguyên tắc đảm bảo lợi ích vật chất và tái tạo việc làm và các nghĩa vụ xã hội khác.
4. Giải quyết các bất cập, vướng mắc về quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng đất.
Có thể giải quyết vướng mắc này theo hướng:
- Thí điểm tính giá trị quyền sử dụng đất vào phần vốn góp Nhà nước trong công ty cổ phần theo giá thoả thuận trong Hội đồng định giá dựa trên khung giá phân loại cụ thể. Đây là biện pháp để khai thác tối đa và hiệu quả giá trị quyền sử dụng đất, tạo điều kiện phát triển một thị trường đất đai, thị trường bất động sản của Việt Nam.
- Cho phép các DN CPH được mua lại quyền sử dụng đất theo phương thức trả góp trong một khoảng thời gian nhất định. Nhà nước cũng có thể cho thuê quyền sử dụng đất với thời hạn ít nhất là 50 năm, có điều chỉnh giá 5 năm một lần theo mặt bằng chung của thị trường. Việc chỉnh giá thuê đất không thể điều chỉnh ngay được vì phải tính lại đồng bộ tất cả các quận huyện. Thời gian tính lại giá cho thuê có khi đến gần 2 năm làm chậm quá trình CPH.
- Nhà nước tiến hành bán đấu giá một số nhà đất đắc địa, dùng tiền đó bổ sung vào Quỹ hỗ trợ sắp xếp và CPH. Hoặc Nhà nước cho đấu giá thuê đối với các nhà đất đó.
Các cơ quan quản lý nhà đất, Uỷ ban nhân dân.phải được giao trách nhiệm hướng dẫn và xử lý trực tiếp các tranh chấp quyền sử dụng đất nh- ư trường hợp các DN Nhà nước cùng chung một lô đất hoặc DN này xây dựng trên đất thuê của DN khác, một phần đất bị lấn chiếm chưa đựoc giải toả, mặc dù DN đã trả tiền thuê đầy đủ.
Cơ quan hữu trách về nhà đất cần sớm giải quyết vấn đề hợp thức hoá giấy tờ sở hữu nhà và ký hợp đồng chính thức về việc cho thuê đất đối
với các DN đã CPH. Đến nay, mặc dù đã hơn 4 năm kể từ khi tiến hành CPH ở Hà Nội, song tất cả 89 DN CPH vẫn chưa được cấp giấy chứng nhận sở hữu nhà và hợp đồng thuê đất. Điều này gây khó khăn cho doanh nghiệp trong việc thế chấp tài sản có giá trị để vay vốn ngân hàng.
Giải quyết thoả đáng lao động dôi dư sau CPH, doanh nghiệp có quyền chọn, sử dụng những người đáp ứng được yêu cầu công việc. Những người không đáp ứng yêu cầu thì Nhà nước phải giải quyết. Nhà nước có chế độ rõ, thoả đáng cho về hưu sớm, về mất sức hoặc đào tạo lại đối với những người còn trẻ, khoẻ có khả năng đáp ứng những ngành nghề, công việc mới. Quy định hiện nay về việc không được chấm dứt hợp đồng lao động với người lao động sau khi doanh nghiệp thực hiện CPH trong năm đầu tiên đang gây khó khăn cho doanh nghiệp. Việc chấm dứt hợp đồng lao động với những người không đáp ứng yêu cầu công việc ở các doanh nghiệp CPH theo quy định hiện hành cần được điều chỉnh và sửa đổi theo hướng: tăng mức trợ cấp mất việc cho người lao động, nâng cao trách nhiệm của người sử dụng lao động khi để người lao động bị mất việc sau khi chuyển sang làm việc tại doanh nghiệp, giảm bớt thủ tục và tập trung thực hiện sự hỗ trợ của Nhà nước thông qua quỹ hỗ trợ sắp xếp doanh nghiệp. Có chương trình tổ chức đào tạo bồi dưỡng lao động về năng lực làm chủ doanh nghiệp, năng lực quản lý, chuyên môn, nghề nghiệp
5. Chính sách ưu đãi hợp lý đối với DNNN thực hiện CPH, đảm bảo quyền tự chủ kinh doanh bình đẳng
Định hướng chính các chính sách ưu đãi hợp lý như sau:
- Nghiên cứu và ban hành các chính sách để tạo lập môi trường kinh doanh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, đặc biệt giữa DN CPH và các DNNN. Cần xoá bỏ các ưu đãi mang tính chất bao cấp kéo dài đối với DNNN như cho vay chỉ cần tín chấp với phương án được duyệt, cho vay với lãi suất ưu đãi, cho khoanh nợ, xoá nợ, dãn nợ. Xem xét lại sự bao
cấp về sử dụng đất đai với diện tích quá rộng, vị trí thuận lợi nhưng không nộp đầy đủ tiền sử dụng đất hoặc tiền thuê đất. Tiến hành thu hồi hoặc tăng mức thuê phải nộp đối với phần đất sử dụng không đúng mục đích. Không tiếp tục cho nợ thuế, hợp thức hoá các khoản nợ thuế kéo dài. Xoá bỏ các hình thức trợ cấp, trợ giá và ưu đãi kiểu bao cấp đối với các hình thức khác.
Cần cụ thể hoá quyền lợi và trách nhiệm hành chính, trách nhiệm vật chất và trách nhiệm pháp lý đối với kết quả làm việc của cán bộ quản lý điều hành trong DNNN. Việc cách chức đối với giám đốc điều hành DNNN không hiệu quả nhiều năm liền còn là hy hữu trong thực tế.
- Thực hiện chế độ miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp đối với phần lợi nhuận được DN để lại đầu tư cho sản xuất kinh doanh như đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài....
Doanh nghiệp được phép thanh toán vào giá thành khoản lãi vay đầu tư bằng nguồn vốn hình thành từ quỹ khen thưởng, phúc lợi để thanh toán lại cho người lao động trong doanh nghiệp.
Nhà nước cần có chính sách tạo điều kiện để các doanh nghiệp sau CPH được quyền huy động vốn rộng rãi từ nhiều nguồn, giảm bớt số DNNN nắm cổ phần chi phối. Nhà nước chỉ tiếp tục đầu tư để giữ tỷ lệ cổ phần chi phối đối với số ít doanh nghiệp thuộc những ngành, lĩnh vực then chốt trong nền kinh tế, những ngành mà xã hội cần nhưng tư nhân không thể hoặc không muốn đầu tư; bởi nếu Nhà nước vẫn nắm cổ phần chi phối ở nhiều Doanh nghiệp thì vốn Nhà nước vẫn bị dàn trải, không thể đầu tư theo trọng tâm, trọng điểm, trong khi lại kìm hãm các công ty cổ phần huy động vốn từ các nguồn trong xã hội.
Bảo đảm quyền tự chủ kinh doanh, bình đẳng đối với các doanh nghiệp CPH. Thống nhất các chính sách ưu đãi để khuyến khích các doanh nghiệp CPH nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh; tạo sân chơi bình đẳng giữa các
doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Cần hướng dẫn rõ ràng và thống nhất các ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp đối với doanh nghiệp cổ phần hóa theo quy định của Luật khuyến khích đầu tư trong nước. Sớm xoá bỏ sự phân biệt đối xử trong hệ thống cơ chế, chính sách giữa doanh nghiệp dân doanh và DNNN, tạo môi trường kinh doanh bình đẳng giữa các công ty cổ phần và DNNN, nhất là về giải quyết quyền sử dụng đất theo yêu cầu kinh doanh, vay vốn , xuất nhập khẩu…
Đối với cơ chế quản lý vốn Nhà nước đầu tư vào công ty cổ phần, cần có tiêu chuẩn rõ và thống nhất về người đại diện sở hữu Nhà nước và người trực tiếp quản lý cổ phần Nhà nước tại công ty cổ phần. Cần xác định rõ quyền và trách nhiệm của người đại diện này đối với hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp và với hiệu quả sử dụng vốn của Nhà nước. Quy định rõ cơ chế phối hợp giữa những người quản lý trực tiếp phần vốn Nhà nước tại doanh nghiệp để bảo đảm lợi ích của Nhà nước, tránh tình trạng các cá nhân quản lý trực tiếp phần vốn của Nhà nước có các ý kiến biểu quyết khác nhau. Quy định cụ thể những vấn đề quan trọng ảnh hưởng đến lợi ích của Nhà nước thì người trực tiếp quản lý phần vốn Nhà nước cần xin ý kiến của cơ quan, trước khi biểu quyết tại Đại hội đồng cổ đông. Trong các kênh quản lý vốn trực tiếp từ các cấp thuộc cơ quan Nhà nước (Chính phủ, bộ, địa phương) hoặc quản lý gián tiếp qua các công ty mẹ, cần phải có một hành lang pháp lý và kinh nghiệm về quản lý tài sản, tài chính để tránh gây thất thoát.
6. Giải quyết lao động dôi dư, đảm bảo lợi ích của người lao động trong DN CPH.
Đối với lao động nghèo trong DN CPH: Cần bỏ mức khống chế “không được vượt quá 20% tổng số cổ phần Nhà nước bán theo giá ưu đãi” đối với số cổ phần mua trả dần của người lao động nghèo trong DN. Thay vì bán chịu cổ phiếu cho ngươì nghèo theo giá ưu đãi, có thể áp dụng phương thức cấp không một số lượng cổ phiếu nhất định tương đương với mức ưu đãi 30%. .
Doanh nghiệp sau CPH không phải ghi nợ, theo dõi suốt 10 năm. Hơn nữa, rủi ro cổ phiếu bán chịu trở thành một khoản nợ khó đòi sau này cũng sẽ bị loại trừ.
Việc xác định lao động thuộc diện nghèo nên giao cho ban giám đốc, đảng uỷ, công đoàn bình xét. Thông tư số 03/LĐTBXH ngày 9/1/1999 của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội về quy định chuẩn nghèo chỉ nên dùng làm tài liệu tham khảo. Thông tư này rất khó áp dụng vì không có căn cứ cụ thể để xác định thu nhập của người lao động. Nếu chỉ căn cứ những khoản thu nhập chính thức thì bình quân thu nhập đầu người trong gia đình của hầu hết người lao động là dưới 300.000 đ. Như vậy dễ xảy ra tranh chấp.
Cần có sự phân biệt mức độ ưu đãi ( số cổ phần cho mỗi năm làm việc thực tế ) đối với người lao động theo ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh, khắc phục tình trạng dàn trải, mang tính bình quân như hiện nay.
Nên mở rộng phạm vi đối tượng được hưởng chế độ ưu đãi đến cả các cán bộ, công nhân viên của DN thực hiện CPH đã nghỉ hưu, nghỉ việc chờ giải quyết chế độ, nghỉ mất sức lao động để ghi nhận sự đóng góp của họ trong quá trình tạo dựng DN trước CPH. Tuy nhiên mức độ ưu đãi đối với đối tượng này cần có sự phân biệt so với những người đang làm việc.
Người lao động gắn bó với DN trong suốt quá trình hình thành và phát triển sẽ không khỏi băn khoăn, lo lắng khi DN thực hiện CPH. Đảm bảo lợi ích người lao động trong quá trình CPH đòi hỏi sự quan tâm đúng mức của Nhà nước và doanh nghiệp.
Đối với người lao động dôi dư sau CPH: Việc CPH tất yếu sẽ dẫn đến một bộ phận người lao động mất việc hoặc thôi việc và con số này sẽ càng lớn lên khi đẩy mạnh triển khai CPH. Giải quyết triệt để vấn đề xã hội này sẽ giúp giảm trở lực to lớn đối với tiến trình CPH.
7. Hoàn chỉnh chính sách bán cổ phần cho đối tác nước ngoài.