Ý Nghĩa Lý Luận Và Thực Tiễn Của Về Thực Tiễn


để tính toán tiêu chí giá trị rừng và tiêu chí giá trị đất khi doanh nghiệp áp dụng hình thức thuê.

- Ngoài các yếu tố ảnh hưởng đến các tiêu chí xác định giá trị doanh nghiệp như các doanh nghiệp khác thì các DNNN trong lĩnh vực lâm nghiệp tác giả đã bổ sung đưa các đặc điểm của SXLN vào các yếu tố ảnh hưởng để nghiên cứu.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Về thực tiễn

- Nghiên cứu hoàn thiện các tiêu chí xác định giá trị các doanh nghiệp nhà nước trong lĩnh vực lâm nghiệp tại Việt Nam thời gian qua không được chú trọng nghiên cứu một cách toàn diện. Vì vậy, việc hoàn thiện các tiêu chí xác định giá trị doanh nghiệp là một đột phá những vấn đề tương đối mới, khó khăn và phức tạp trong quản trị doanh nghiệp hiện nay. Các tiêu chí đề xuất được áp dụng sẽ giúp xác định được giá trị doanh nghiệp chính xác hơn, phù hợp hơn và tránh được những thất thoát tài sản khi đổi mới doanh nghiệp. Để minh chứng cho sự thay đổi đột phá đó tác giả đã tiến hành sử dụng các tiêu chí đề xuất để xác định lại giá trị các doanh nghiệp tại điểm nghiên cứu đã chọn lọc để so sánh kiểm chứng thấy được sự khác biệt rõ rệt.

- Luận án cung cấp cơ sở khoa học và thực tiễn giúp các doanh nghiệp Lâm nghiệp nghiên cứu, tham khảo trong việc áp dụng các tiêu chí để xác định giá trị doanh nghiệp, xây dựng phương án đổi mới, sắp xếp và phát triển doanh nghiệp.

- Luận án là tài liệu tham khảo hữu ích đối với hoạt động giảng dạy, học tập và nghiên cứu, đặc biệt đối với đối tượng nghiên cứu xác định giá trị doanh nghiệp nhà nước trong lĩnh vực sản xuất lâm nghiệp

- Các kết quả nghiên cứu của luận án là tài liệu tham khảo cho các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp lâm nghiệp nói riêng trong việc xác định giá trị doanh nghiệp.

7. Kết cấu của đề tài

Ngoài các nội dung của phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục. Kết cấu chính của đề tài luận án bao gồm 4 chương:

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 196 trang tài liệu này.

- Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án.


Nghiên cứu hoàn thiện các tiêu chí xác định giá trị doanh nghiệp nhà nước trong lĩnh vực sản xuất lâm nghiệp - 4

- Chương 2: Cơ sở lý luận và thực tiễn về các tiêu chí xác định giá trị doanh nghiệp trong lâm nghiệp

- Chương 3: Đánh giá thực trạng các tiêu chí xác định giá trị doanh nghiệp Nhà nước trong lĩnh vực sản xuất lâm nghiệp

- Chương 4: Đề xuất hoàn thiện các tiêu chí xác định giá trị doanh nghiệp Nhà nước trong lĩnh vực sản xuất lâm nghiệp


Chương 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1.1. Các công trình nghiên cứu nước ngoài

1.1.1. Các nghiên cứu về tiêu chí xác định giá trị doanh nghiệp

Chúng ta có thể thấy rằng một trong những quyết định quan trọng nhất của các nhà quản lý là xác định giá trị doanh nghiệp của họ bởi những tiêu chí nào. Giá trị của một doanh nghiệp có thể hiểu là giá trị kinh tế phản ánh toàn bộ giá trị thị trường của một doanh nghiệp. Theo Bradburd Wells & Richards (2015) giá trị doanh nghiệp bao gồm toàn bộ giá trị mà các cổ đông nắm giữ bao gồm các tiêu chí sau: giá trị cổ phần phổ thông, giá trị vốn chủ sở hữu, giá trị cổ đông thiểu số, tiền vay, và các khoản khác. Từ cách tiếp cận này, người ta có thể chuyển nhượng một công ty khi người mua thanh toán cho các chủ sở hữu doanh nghiệp sau khi đã được định giá. Một cách tiếp cận đơn giản hơn thì giá trị doanh nghiệp là toàn bộ giá trị thị trường của doanh nghiệp đó và các khoản nợ.

Theo quan điểm của nhiều tác giả Gorenak & Kosir (2012); Bradburd & Richards (2013); Hulten & Hao (2008); Hall (2001), mỗi doanh nghiệp là một tổ chức kinh doanh, do đó chúng ta cần nhìn nhận giá trị của doanh nghiệp một cách tổng thể. Điều này sẽ mang tính thực tiễn cao hơn khi nhìn nhận giá trị doanh nghiệp chỉ bao gồm các tiêu chí giá trị tiền tệ. Nói cách khác, giá trị doanh nghiệp bao gồm nhiều tiêu chí đánh giá như: tiêu chí giá trị thị trường, tiêu chí các khoản nợ và tiêu chí các lợi ích khác. Giá trị doanh nghiệp có thể phân làm ba tiêu chí cơ bản sau: Tiêu chí tổng giá trị, tiêu chí giá trị cốt lõi và tiêu chí giá trị hoạt động (Suozzo et al, 2001).

Xác định giá trị doanh nghiệp là xác định giá trị thực của một doanh nghiệp, xác định giá trị doanh nghiệp phức tạp hơn nhiều so với xác định vốn


hóa thị trường của một doanh nghiệp. Nó thường đề cập đến các tiêu chí giá trị chuyển nhượng, khoản tiền cần thiết để mua một doanh nghiệp tại mức giá thị trường, bao gồm các tiêu chí: tiền mặt, nợ, và các khoản khác liên quan đến doanh nghiệp như thương hiệu, bí quyết kinh doanh. Các công ty đại chúng có thể định giá thông qua cơ chế giá tương tác giữa người mua và bán trên thị trường, trong khi đó các doanh nghiệp tư nhân không thể sử dụng cơ chế tương tự. Do đó thông tin là hết sức quan trọng đối với những doanh nghiệp nhỏ khi mà tiêu chí các giá trị vô hình thường không được thể hiện và rất khó để định giá (Bradburd và cộng sự, 2015).

Câu hỏi đặt ra là tại sao phải định giá doanh nghiệp. Như chúng ta đã biết trong nền kinh tế thị trường, các loại hàng hóa cũng như các doanh nghiệp đều được mua và bán, vì vậy yêu cầu thiết yếu là người mua và người bán phải xác định được giá trị của doanh nghiệp. Định giá doanh nghiệp giúp trả lời được những câu hỏi sau: Doanh nghiệp hoạt động thế nào? Những thành công của doanh nghiệp là gì? Điều gì khiến nó đặc biệt?. Lý thuyết và thực tế chỉ ra rằng việc định giá là kỹ năng hơn là sự chính xác hay là những kiến thức cụ thể. Do đó, kết quả của việc định giá có thể rất khác nhau phụ thuộc vào phương pháp định giá và các tiêu chí được lựa chọn. Ngày nay, nguyên tắc của định giá là “định giá doanh nghiệp theo tiêu chí tiêu chuẩn quốc tế”. Hai nguyên tắc cơ bản được đưa ra, thứ nhất việc định giá được thực hiện như một nền kinh tế chung, hai là việc định giá không thể dựa trên kết quả tính toán mà phải dựa trên kết quả mong muốn (Halil, 2016).

Xác định giá trị doanh nghiệp khi cổ phần hóa các doanh nghiệp lâm nghiệp tại Trung Quốc đã đưa ra 6 mô hình cổ phần trong các lâm trường quốc doanh hiện nay đã và đang thực hiện là:

- Mô hình tăng lượng: Đây là mô hình mà những tiêu chí giá trị tài sản trong các lâm trường được định giá để biến thành cổ phần của nhà nước hoặc


của tập thể. Ngoài ra cũng thu hút cổ phần đóng góp của cá nhân, doanh nghiệp. Mô hình này còn được gọi là mô hình cổ phần hợp tác. Mô hình này khá phát triển khi cổ phần hóa các lâm trường quốc doanh của Trung Quốc

- Mô hình bán trước cổ phần sau: Mô hình này phù hợp với những lâm trường có các tiêu chí giá trị tài sản nhỏ. Những đơn vị này nên thực hiện việc bán lại giá trị doanh nghiệp cho công nhân trong đơn vị, sau đó những người có quyền sở hữu những tài sản này có thể góp cổ phần hoặc cho công ty mới vay lại những cổ phần đó, đồng thời họ cũng cần cố gắng tăng thêm lượng đóng góp cổ phần trong công ty mới.

- Mô hình bán giá trị doanh nghiệp âm (thua lỗ): Với những lâm trường quốc doanh làm ăn thua lỗ các tiêu chí xác định giá tri âm thì có thể bán giá trị doanh nghiệp âm này cho những công nhân cũ của doanh nghiệp. Sau khi mua xong, bằng các chính sách khôi phục thích hợp, họ có thể gọi vốn và góp vốn cho công ty cổ phân mới và họ là người có quyền sở hữu công ty đó. Như vậy là ngay cả những lâm trường quốc doanh sản xuất kinh doanh kém hiệu quả làm ăn thua lỗ vẫn có thể tính toán xác định giá trị doanh nghiệp để cổ phần hóa được

- Mô hình kết hợp cổ phần và cho thuê: Đây là mô hình áp dụng với những lâm trường quốc doanh mà người công nhân trong một lúc không có khả năng mua lại toàn bộ các tiêu chí giá trị tài sản của doanh nghiệp thì một phần các tiêu chí tài sản đó sẽ được bán cho người công nhân và phần giá trị tài sản họ không thể mua được thì được cho thuê và người công nhân phải có nghĩa vụ không ngừng tăng cường cổ phần của công ty.

- Mô hình bán mộ tập cổ phần: Đây là mô hình áp dụng với những lâm trường quốc doanh có các tiêu chí giá trị tài sản nhỏ có thể tiến hành bán theo phương thức công khai cạnh tranh giá cho các cá nhân hoặc doanh nghiệp khác, sau đó các doanh nghiệp mua lại này thực hiện việc mộ tập cổ phần cho doanh nghiệp được mua.


- Mô hình tổ chức mới lại lâm trường quốc doanh: Mô hình này áp dụng với những lâm trường quốc doanh có tỷ lệ các tiêu chí khoản nợ quá lớn có thể thực hiện theo hình thức công nhân bỏ vốn góp cổ phần. Những tiêu chí giá trị tài sản còn có giá trị của doanh nghiệp cũ được cho thuê sử dụng tiếp và số tiền đó được dùng để trả nợ cũ của doanh nghiệp.

Ngoài ra việc cải cách các doanh nghiệp lâm nghiệp theo hướng cổ phần hóa cần chú ý với tiêu chí giá trị quyền sở hữu đất lâm nghiệp không được biến thành tài sản để đóng góp cổ phần mà chỉ có tiêu chí giá trị quyền sử dụng đất lâm nghiệp mới được biến thành giá trị đóng cổ phần mà thôi. Đồng thời một bộ phận lớn các Công ty lâm nghiệp được quản lý và hoạt động dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn (Dào, Liêm, 2017).

1.1.2. Các nghiên cứu về phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp

Có rất nhiều phương pháp định giá doanh nghiệp khác nhau được sử dụng tùy theo mục đích định giá. Theo Hallil (2016) có ba nhóm phương pháp chính để định giá doanh nghiệp: phương pháp định giá dựa trên tài sản, phương pháp định giá dựa trên giá trị kinh tế và phương pháp định giá kết hợp. Những phương pháp này đều có ưu và nhược điểm nhất định và không phương pháp nào được coi là tối ưu.

Trong nghiên cứu của Jimmy Torrez (2006), doanh nghiệp có thể được định giá theo các phương pháp như: dòng tiền chiết khấu, lý thuyết giá chênh lệch, mô hình định giá tài sản vốn, mô hình đầu tư, mô hình giá trị tăng trưởng tiềm năng, chi phí vốn bình quân gia quyền. Nghiên cứu chỉ ra rằng xu hướng định giá doanh nghiệp dựa trên đánh giá kết quả và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, phương pháp này dường như sẽ cho ra kết quả tốt hơn so với việc định giá dựa trên các tiêu chí với các con số kế toán.

Phương pháp dòng tiền chiết khấu được sử dụng phổ biến trong việc định giá doanh nghiệp, phương pháp này tập trung vào các tiêu chí: dòng tiền


kỳ vọng, tỷ lệ lãi suất và thu nhập phản ánh trên sổ kế toán để tính toán giá trị doanh nghiệp. Kết quả của phương pháp này phụ thuộc vào việc đánh giá dòng tiền, mức độ chi tiết của mô hình cũng như khoảng thời gian được đưa vào tính toán. Đối với khoảng thời gian ngắn, lợi nhuận thị trường tạo ra bởi biến thu nhập được giải thích bình quân là 5% (Lev, 1989). Tiêu chí tỷ suất cổ tức cũng chỉ giải thích một phần nhỏ của sự khác biệt về lợi nhuận. Khi thời gian tính toán tăng lên, sự sai lệch trong tính toán sẽ giảm đáng kể, khi Lev (1989) tiến hành hồi quy với thời gian 5 năm mức độ giải thích của mô hình tăng từ 5% lên 35%. Easton, Haris và Ohlson (1992) kiểm chứng kết quả này khi sử dụng các mức thời gian tính toán khác nhau. Với mức thời gian mười, năm và 2 năm thì mức độ giải thích của mô hình lần lượt là 63%, 30%, 15% và 6%.

Trong một nghiên cứu mang tên các phương pháp định giá doanh nghiệp và những lỗi phổ biến nhất của Pablo Fernandez (2002) đã chỉ ra rằng có 6 nhóm phương pháp chính để xác định giá trị doanh nghiệp bao gồm: sử dụng bảng cân đối, sử dụng báo cáo thu nhập, phương pháp hỗn hợp, phương pháp chiết khấu dòng tiền, phương pháp giá trị và phương pháp lựa chọn. Nghiên cứu cũng tổng hợp những lỗi thường gặp trong việc sử dụng các tiêu chí xác định giá trị doanh nghiệp như: xác định sai tỷ lệ chiết khấu, xác định sai dòng tiền kỳ vọng, xác định sai phần dư, lỗi khi giải thích về giá trị doanh nghiệp tính được và lỗi tổ chức.

Năm 2001, Sougiannis và Yaekura cũng đã kiểm tra 3 phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp dựa trên các tiêu chí số liệu kế toán, đó là: phương pháp dòng tiền tự do, phương pháp phần dư thu nhập không bao gồm giá trị cuối và phương pháp phần dư thu nhập với một giá trị cuối. Số liệu về thu nhập được đưa vào 3 mô hình để tiến hành phân tích, kết quả chỉ ra rằng tiêu chí con số dự báo tốt hơn so với việc sử dụng đơn thuần tiêu chí thu nhập hiện tại, tiêu chí giá trị ghi sổ và tiêu chí cổ tức. Nghiên cứu này đã thu thập số liệu


từ 36.532 doanh nghiệp trong khoảng thời gian từ 1981-1998. Kết quả của nghiên cứu chỉ ra rằng mô hình sử dụng phương pháp phần dư thu nhập với tiêu chí giá trị cuối là chính xác nhất trong việc dự báo giá trị cổ phần với 48% số trường hợp, trong khi đó phương pháp dòng tiền tự do cho kết quả thấp hơn với 18% số trường hợp được dự báo và con số này ở phương pháp phần dư thu nhập không có giá trị cuối chỉ là 13%. Phương pháp sử dụng thu nhập hiện tại và giá trị sổ sách cho kết quả tốt nhất với 21% số trường hợp còn lại.

Năm 2007, Dontoh, Radhakrishnan and Ronen đã so sánh mối quan hệ giữa giá cổ phiếu và số liệu kế toán, kết quả chỉ ra rằng mối quan hệ này sẽ giảm dần theo thời gian, điều này có thể giải thích được do giá cổ phiếu tăng lên do sự mua bán cổ phiếu được thực hiện khi thiếu thông tin về loại cổ phiếu đó.

Một số nghiên cứu có liên quan khác tiến hành xem xét mối quan hệ giữa giá trị doanh nghiệp và tiêu chí lợi tức từ cổ phần mang lại hoặc các tiêu chí số liệu kế toán dựa trên phần dư thu nhập. Các nghiên cứu được thực hiện bởi Shiller (1981), Leroy and Poter (1981), Cambel and Shiller (1987) để trả lời câu hỏi liệu sự thay đổi của tiêu chí lợi tức có ảnh hưởng đến giá trị của cổ phần. Họ nhận ra rằng phần lớn sự thay đổi của giá tài sản (88%) là do sự tăng trưởng của dòng tiền trong khi 12% còn lại là do lợi nhuận từ tài sản mang lại. Họ kết luận rằng không có mối quan hệ giữa tiêu chí lợi tức cổ phần và giá trị của doanh nghiệp.

Hoạt động sát nhập và mua lại các doanh nghiệp hiện nay rất phổ biến, kết quả của các hoạt động này giúp doanh nghiệp phát triển hoặc có phục vụ cho hoạt động tái cơ cấu của doanh nghiệp. Sát nhập và mua lại có thể được thực hiện trong 3 giai đoạn: giai đoạn lập kế hoạch và chuẩn bị, giai đoạn thực hiện và giai đoạn hợp nhất. Trong giai đoạn đầu tiên thì quan trọng nhất là xác định được giá trị của doanh nghiệp sẽ tiến hành sát nhập và mua lại, Jaroslav và các cộng sự (2010) đã tiến hành nghiên cứu nhằm xác định giá tri doanh nghiệp trong hoạt động sát nhập và mua lại tại Czech sử dụng phương pháp

Xem tất cả 196 trang.

Ngày đăng: 03/09/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí