Ảnh Hưởng Của Kế Hoạch Thuế Đến Giá Trị Doanh Nghiệp Khi Có Điều Tiết Bởi Sở Hữu Nhà Nước


cổ đông càng dễ đạt được kỳ vọng về lợi ích thuế đem lại từ KHT (Jensen & Meckling, 1976).

Kế hoạch thuế không ảnh hưởng đến giá trị doanh nghiệp

KHT không ảnh hưởng đến GTDN có nghĩa là KHT không tạo ra lợi ích thuế cho doanh nghiệp. Trong trường hợp này doanh nghiệp không quan tâm KHT, thuế kém ý nghĩa do giá trị của công ty được quyết định bởi yếu tố khác còn lại. Ngoài ra, theo lý thuyết “bàn tay can thiệp có động cơ” các doanh nghiệp phải đối diện với thực trạng “bôi trơn” có các quy định, thủ tục liên quan KHT của cơ quan thuế, làm cho doanh nghiệp không thấy được những lợi ích của KHT.

2.2.5.2. Ảnh hưởng của kế hoạch thuế đến giá trị doanh nghiệp khi có điều tiết bởi sở hữu Nhà nước

Luận án cho rằng sở hữu Nhà nước điều tiết đối với mối quan hệ ảnh hưởng của KHT đến GTDN theo ba trường hợp: thuận chiều, nghịch chiều và không ảnh hưởng.

Sở hữu Nhà nước ảnh hưởng thuận chiều đến mối quan hệ giữa KHT và GTDN

Sở hữu Nhà nước ảnh hưởng thuận chiều đến mối quan hệ giữa KHT và GTDN, có nghĩa là sở hữu Nhà nước làm mạnh thêm mối quan hệ này, GTDN gia tăng cùng với sự tăng lên của tỷ lệ sở hữu Nhà nước, trường hợp Nhà nước là cổ đông kiểm soát. Trong trường hợp này mục tiêu của Nhà nước cũng đồng thời là mục tiêu của cổ đông khác và của nhà quản trị.

Ba cơ chế hình thành sự ảnh hưởng của sở hữu Nhà nước đến mối quan hệ giữa KHT và GDTN như sau:

Theo lý thuyết nhà quản lý, nhà quản trị đưa ra quyết định về thuế nhằm vào tối ưu hóa thuế, tối đa hóa lợi nhuận sau thuế, đảm bảo đồng thời lợi ích của cổ đông và nhà quản trị. Cơ cấu sở hữu Nhà nước chiếm tỷ trọng kiểm soát tạo động lực cho nhà quản trị dễ dàng thực hiện mục tiêu đề ra.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 249 trang tài liệu này.

Theo lý thuyết “bàn tay hỗ trợ”, bằng cơ chế sở hữu ở mức kiểm soát Nhà nước chủ động tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp khai thác tốt lợi ích thuế, bằng cách dễ dàng bôi trơn cho những quy trình, thủ tục tuân thủ thuế, có quyền


Ảnh hưởng của kế hoạch thuế đến giá trị doanh nghiệp: Trường hợp các doanh nghiệp phi tài chính niêm yết ở Việt Nam - 8

sử dụng đất không chịu thuế, có thông tin liên quan đến sự thay đổi cơ chế chính sách thuế trong tương lai, cũng như giấy phép cho các dự đầu tư có ưu đãi thuế…Tất cả tạo nên lợi thế cho doanh nghiệp và cải thiện hiệu quả hoạt động, góp phần gia tăng GTDN.

Theo lý thuyết quyền lực chính trị, doanh nghiệp có quy mô lớn tạo lợi thế trong khai thác lợi ích thuế từ giảm chi phí thuế, từ đó gia tăng lợi nhuận sau thuế và ảnh hưởng cùng chiều đối với GTDN. Sở hữu cổ phần tại các doanh nghiệp cổ phần giúp cho Nhà nước có thể thực hiện nhiều mục tiêu, tùy thuộc vào từng thời kỳ. Đối với quốc gia có nền kinh tế chuyển đổi, sở hữu Nhà nước càng cao, doanh nghiệp hoạt động càng hiệu quả (Le & Buck, 2009). Doanh nghiệp không chỉ chủ động tạo mối quan hệ chính trị với Nhà nước mà còn có sự chủ động hỗ trợ của Nhà nước đối với doanh nghiệp.

Phân tích trên đây cho thấy, yếu tố sở hữu Nhà nước có thể tác động cùng chiều lên cả KHT và giá trị doanh nghiệp. Nói cách khác tương tác giữa KHT và sở hữu Nhà nước ảnh hưởng cùng chiều đến giá trị doanh nghiệp, làm mạnh thêm mối quan hệ này.

Sở hữu Nhà nước ảnh hưởng ngược chiều đến mối quan hệ giữa KHT và GTDN

Sự ảnh hưởng ngược chiều của sở hữu Nhà nước lên mối quan hệ giữa KHT và GTDN, nghĩa là sự hiện diện của Nhà nước trong vai trò cổ đông tạo điều kiện chuyển giao nhiều hơn nguồn lực từ doanh nghiệp vào ngân sách Nhà nước thông qua công cụ thuế.

Cơ chế ảnh hưởng ngược chiều của sở hữu Nhà nước đến mối quan hệ giữa KHT và GTDN được giải thích dựa trên lý thuyết đại diện, lý thuyết “bàn tay can thiệp có động cơ” và lý thuyết chi phí chính trị.

Trước hết theo lý thuyết đại diện, mức sở hữu không kiểm soát của Nhà nước tại các doanh nghiệp có sở hữu Nhà nước làm gia tăng mâu thuẫn về lợi ích giữa cổ đông lớn (Nhà nước) với các cổ đông nhỏ. Bằng công cụ thuế Nhà nước tạo cơ chế chuyển nguồn lực của doanh nghiệp vào ngân sách để thực hiện các hoạt động công ích. Vì vậy, Nhà nước định hướng nhà quản hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận


để gia tăng nguồn thu cho ngân sách Nhà nước, đồng nghĩa với giảm hiệu quả của KHT trong gia tăng GTDN.

Theo lý thuyết “bàn tay điều tiết có động cơ”, sự luận giải về ảnh hưởng của KHT đến giá trị doanh nghiệp điều tiết bởi sở hữu Nhà nước theo hai hướng: sự gia tăng chi phí bôi trơn thủ tục tuân thủ thuế và cổ đông Nhà nước giữ quyền kiểm soát để doanh nghiệp chuyển giao nguồn lực qua công cụ thuế.

Theo lý thuyết chi phí chính trị, lợi thế về quy mô lớn và hoạt động hiệu quả của doanh nghiệp dẫn tới phát sinh nhiều chi phí chính trị hơn và dễ bị giám sát từ phía Nhà nước. Vì vậy, sự chuyển giao tài sản cho Nhà nước của các doanh nghiệp lớn hơn sẽ lớn hơn. Đòi hỏi này của Nhà nước cũng tạo ra cho doanh nghiệp một khoản chi phí khá lớn, làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp và giảm GTDN.

Sở hữu Nhà nước không ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa KHT với GTDN Sở hữu Nhà nước không ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa KHT và GTDN nghĩa là sự thay đổi về giá trị của doanh nghiệp chịu sự chi phối chủ yếu bởi các yếu tố khác và Nhà nước cũng không phải là yếu tố chính dẫn đến sự thay đổi kết quả của KHT. Bởi vì, Nhà nước không sở hữu cổ phần hoặc tỷ lệ sở hữu quá nhỏ sẽ không làm ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa KHT và GTDN. Ngoài ra, doanh nghiệp chủ động trong chiến lược kinh doanh và hoạt động kinh doanh để tránh sự can thiệp của Nhà nước đối với doanh nghiệp hoặc cần hỗ trợ từ phía Nhà nước.

2.2.5.3. Khung lý thuyết cho nghiên cứu ảnh hưởng của kế hoạch thuế đến giá trị doanh nghiệp và vai trò điều tiết của sở hữu Nhà nước tại Việt Nam

Các nội dung ở trên đã phân tích kỹ các kịch bản về ảnh hưởng của KHT đến giá trị doanh nghiệp trong 2 trường hợp không có điều tiết và có điều tiết bởi sở hữu Nhà nước. Trong bối cảnh của Việt Nam giai đoạn 2015-2019, tỷ lệ sở hữu Nhà nước tại các doanh nghiệp còn chiếm tỷ trọng đáng kể/kiểm soát đóng vai trò quan trọng trong các hoạt động của doanh nghiệp, trong đó có hoạt động thuế. Vì vậy về khung lý thuyết cho nghiên cứu ảnh hưởng của kế hoạch thuế đến giá trị doanh nghiệp và vai trò điều tiết của sở hữu Nhà nước cho trường hợp các doanh nghiệp phi tài chính niêm yết tại Việt Nam, Luận án đúc kết theo Hình 2.5.


(–)

Hình 2.5 Khung lý thuyết về ảnh hưởng của KHT đến GTDN và vai trò điều tiết của sở hữu Nhà nước ở Việt Nam


KHT

(+)

GTDN

(+)

(–)

(+)

Sở hữu

Nhà nước

Sở hữu kiểm soát của Nhà

nước

Sở hữu không kiểm soát của

Nhà nước


Nguồn: Đề xuất của tác giả từ các lý thuyết

Theo Hình 2.5, các mối quan hệ theo lý thuyết được đúc kết cho đối tượng nghiên cứu của Luận án như sau:

(i) Theo lý thuyết nhà quản lý, KHT ảnh hưởng thuận chiều lên giá trị doanh nghiệp 513 doanh nghiệp phi tài chính niêm yết ở Việt Nam.

(ii) Theo lý thuyết đại diện, lý thuyết “bàn tay can thiệp có động cơ” và lý thuyết chi phí chính trị, sở hữu Nhà nước đóng vai trò điều tiết ngược chiều, làm suy yếu mối quan hệ giữa KHT với GTDN.

(iii) Theo lý thuyết nhà quản lý, lý thuyết “bàn tay hỗ trợ” và lý thuyết quyền lực chính trị, sở hữu kiểm soát của Nhà nước trong các doanh nghiệp đóng vai trò điều tiết cùng chiều, làm mạnh hơn mối quan hệ giữa KHT với GTDN.

(iv) Theo lý thuyết đại diện, lý thuyết “bàn tay can thiệp có động cơ” và lý thuyết chi phí chính trị, sở hữu Nhà nước không kiểm soát trong các doanh nghiệp đóng vai trò điều tiết, làm suy yếu mối quan hệ giữa KHT với GTDN.

2.3. CÁC NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM CÓ LIÊN QUAN

Để đánh giá về ảnh hưởng của KHT đến GTDN, đặc biệt làm rõ điều kiện cụ thể KHT có ảnh hưởng đến GTDN phi tài chính niêm yết ở Việt Nam từ năm 2015 đến 2019, các nghiên cứu trước có liên quan được phân loại theo nhóm nghiên


cứu về ảnh hưởng của KHT đến GTDN không có vai trò điều tiết của yếu tố khác và nhóm nghiên cứu về ảnh hưởng của KHT đến giá trị doanh nghiệp có biến điều tiết của yếu tố khác. Phân loại này đảm bảo tính logic với khung lý thuyết của Luận án, dễ dàng thảo luận và phát hiện khoảng trống nghiên cứu (Templier & Paré, 2015).

2.3.1. Các nghiên cứu thực nghiệm về ảnh hưởng của kế hoạch thuế đến giá trị doanh nghiệp

Các nghiên cứu đầu tiên về tác động của một số yếu tố đến KHT xuất hiện từ những năm 1980, trong đó khẳng định sự ảnh hưởng thuận chiều giữa một số đặc điểm của doanh nghiệp như: đòn bẩy tài chính, mức độ sử dụng vốn đến KHT (Stickney & McGee, 1982) và quy mô của doanh nghiệp (phản ánh chi phí chính trị 8 ), có biến động cùng chiều với thuế suất hiệu dụng của doanh nghiệp (Zimmerman, 1983). Theo thời gian các nghiên cứu được mở rộng ra để đánh giá ảnh hưởng của KHT, đặc biệt là lợi ích hoặc rủi ro của KHT9 (Hutchens & Rego, 2015). Tính đến tháng 10 năm 202010, các nghiên về KHT nói chung và vai trò của KHT nói riêng được khai thác theo nhiều khía cạnh và phạm vi nghiên cứu được mở rộng từ dữ liệu của một quốc gia cho đến dữ liệu về KHT của nhiều quốc gia trên thế giới.

Những năm đầu thế kỷ 21, một số nghiên cứu tại Anh và Mỹ đã xác định được chiều hướng ảnh hưởng của KHT đến GTDN. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu không thống nhất. Trong nhóm các nghiên cứu về ảnh hưởng của KHT đến GTDN không có vai trò điều tiết của yếu tố khác, Kawor & Kportorgbi (2014) và Khaoula & cộng sự (2015) khẳng định sự ảnh hưởng thuận chiều của KHT đến GTDN,


8 Quy mô doanh nghiệp phản ánh chi phí chính trị (Political cost), các doanh nghiệp có quy mô càng lớn càng thu hút sự chú ý của chính phủ (Jensen & Meckling, 1976; Wu, & cộng sự, 2012…).

9 Quản trị rủi ro thuế thu hút các nhà nghiên cứu sau khi đạo luật Sarbanes-Oxley của Mỹ được ban hành năm 2002, yêu cầu công ty đại chúng cải thiện sự đảm bảo và tin tưởng của các thông tin tài chính để bảo vệ lợi ích của các nhà đầu tư.

10 Theo khả năng cập nhật các bài báo khoa học của tác giả.


nghĩa là công ty càng khai thác tốt KHT (tăng phần tiết kiệm tiền thuế phải trả/giảm thuế suất hiệu dụng) góp phần gia tăng GTDN. Trong khi Appolos & Jerry (2016) cho thấy kết quả ngược lại, doanh nghiệp càng khai thác tốt KHT thì GTDN càng giảm hoặc kết quả nghiên cứu của Umeh & Okegbe (2019) cho thấy KHT không ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Các kết quả nghiên cứu trước về sự ảnh hưởng của KHT đến GTDN là không thống nhất, vì vậy không thể khẳng định chắc chắn chiều hướng tác động của KHT lên GTDN.

Theo Nguyễn Văn Tuấn (2018) điểm mới của một nghiên cứu có thể là: Ý tưởng nghiên cứu; Dữ liệu; Phương pháp nghiên cứu và Cách luận giải kết quả nghiên cứu. Luận án dựa theo các điểm này lược khảo các nghiên cứu trước, phát hiện khoảng trống nghiên cứu và kỳ vọng đóng góp mới, làm rõ hơn bối cảnh ảnh hưởng của KHT đến GTDN. Trên cơ sở đó, Luận án thống kê các nghiên cứu trước trong Bảng 2.2 để khái quát các nghiên cứu đánh giá về ảnh hưởng của KHT đến GTDN không có vai trò điều tiết của yếu tố khác và phân tích, đối sánh giữa các nghiên cứu theo từng nội dung, cụ thể như sau:

(i) Phương pháp nghiên cứu


Kết quả tổng hợp của Bảng 2.2 cho thấy hầu hết các nghiên cứu sử dụng phương pháp hồi quy truyền thống đối với mô hình tuyến tính đơn tầng (one level model) để tìm câu trả lời cho mỗi nghiên cứu. Ngoài ra, phương pháp phân tích nhân quả (Granger Causality), mô hình tự hồi quy véc tơ và điện não đồ được sử dụng phối hợp trong một số nghiên cứu khác.

Do đặc tính dữ liệu, mỗi nghiên cứu sử dụng kỹ thuật khác nhau để xử lý, cụ thể như: Khaoula & cộng sự, (2015) sử dụng GLS do ước lượng OLS không hiệu quả, có hiện tượng phương sai thay đổi, Appolos & Jerry (2016) dùng Pooled OLS và kiểm định Wooldridge để kết luận không có tự tương quan giữa các biến và Assidi & cộng sự (2016) sử dụng kỹ thuật hồi quy và kiểm định Hausman để lựa chọn mô hình các tác động cố định (Fixed effect model - FEM). Nghiên cứu của Assidi và cộng sự có chia mẫu thành nhóm doanh nghiệp niêm yết và không niêm yết để đánh giá sự ảnh hưởng của việc niêm yết/không niêm yết đến GTDN, từ


đó, mô hình được lựa chọn theo từng mẫu lần lượt là FEM và REM. Còn lại, Olajide (2017) rất đơn giản về phương pháp, trong khi Salawu & cộng sự (2017) sử dụng kết hợp phương pháp phân tích nhân quả và mô hình tự hồi quy véc-tơ (Vector Auto Regression-VAR) để thực hiện nghiên cứu. Đặc biệt có Ji & Shan (2018) sử dụng biện pháp điện não đồ kết hợp hỗ trợ cho kết quả hồi quy. Tuy nhiên phương pháp này thực sự không dễ thực hiện trong thực tế.

Nguyen & cộng sự (2020) là nghiên cứu có liên quan duy nhất được thực hiện trong bối cảnh của Việt Nam. Trong đó các nhà nghiên cứu sử dụng phương pháp GMM (Generalized Method of Moments) để đánh giá ảnh hưởng của né tránh thuế lên kết quả hoạt động của 125 công ty niêm yết ở Việt Nam trong giai đoạn 2010- 2016.

(ii) Mô hình nghiên cứu


Nhìn chung, mô hình của các nghiên cứu phản ánh mối quan hệ tuyến tính giữa biến phụ thuộc, biến độc lập và các biến kiểm soát. Riêng nghiên cứu của Salawu & cộng sự (2017) sử dụng mô hình VAR. Các nghiên cứu lựa chọn đo lường các biến có điểm giống và khác nhau.

Biến phụ thuộc GTDN: Hầu hết các nghiên cứu sử dụng chỉ số Tobin’s Q để đo lường giá trị doanh nghiệp. Do đặc điểm của dữ liệu, cách tính toán cụ thể của chỉ số này có thể khác nhau ở cách tính giá trị của nợ, cụ thể: (i) Khaoula & cộng sự (2015) và Salawu & cộng sự (2017) tính theo giá thị trường của tổng nợ và vốn cổ phần. (ii) Appolos & Jerry (2016) tính theo giá thị trường của khoản nợ ngắn hạn, giá trị sở sách của nợ dài hạn.

Ngoài ra, GTDN còn được đo bằng ROA (Assidi & cộng sự 2016) hoặc kết quả hoạt động của công ty được đo bằng lợi nhuận trước thuế (Olajide, 2017). Nguyen & cộng sự (2020) đo lường kết quả hoạt động của doanh nghiệp bằng cả 3 chỉ tiêu ROE, ROA và Tobin’s Q.

Biến độc lập KHT: KHT được đo lường bằng nhiều cách khác nhau tùy theo dữ liệu sẵn có của mỗi quốc gia. Đa số các nghiên cứu đo lường bằng ETR kế


toán. Trong đó có Khaoula & cộng sự (2015) đã kiểm tra độ nhạy và khẳng định ETR kế toán chính xác hơn phần tiết kiệm tiền thuế. Cùng quan điểm này, Razali & cộng sự (2019) & cộng sự (2018) cũng chỉ ra ETR kế toán phù hợp hơn để đo lường KHT. Nghiên cứu của Nguyen & cộng sự (2020) đo lường né tránh thuế bằng cả 3 chỉ tiêu: ETR bằng tiền, ETR hiện hành và BTD.

Biến kiểm soát: Các biến kiểm soát được đưa vào mô hình dựa trên lý thuyết và kết quả của các nghiên cứu trước theo sự lựa chọn của từng tác giả. Kawor & Kportorgbi (2014) xác định các biến kiểm soát dựa trên nghiên cứu của Desai & Dhamarpala (2009) và Wahab (2010). Khaoula & cộng sự (2015) tiếp cận theo các nội dung quản trị của doanh nghiệp liên quan đến cơ cấu tài sản, cấu trúc vốn, hoạt động kinh doanh, quy mô doanh nghiệp và tỷ lệ lạm phát. Các nghiên cứu còn lại chủ yếu theo cách tiếp cận của Khaoula & cộng sự (2015) hoặc kết hợp giữa hai cách này (Ji & Shan, 2018). Đối với nghiên cứu của Nguyen & cộng sự (2020) xác định các biến kiểm soát thuộc về đặc điểm của doanh nghiệp như: đòn bẩy tài chính, dòng tiền, quy mô công ty, giá trị tài sản cố định và mức tăng trưởng của công ty.

(iii) Dữ liệu nghiên cứu


Bảng 2.2 cho thấy các nghiên cứu chủ yếu được thực hiện dựa trên bộ dữ liệu bảng của từng quốc gia đơn lẻ hoặc riêng Salawu & cộng sự (2017) có cách tiếp cận khác nên sử dụng dữ liệu chuỗi thời gian.

(iv) Kết quả nghiên cứu


Các nghiên cứu có đánh giá ảnh hưởng của KHT đến GTDN (khi không có yếu tố điều tiết) cho kết luận hoàn toàn không thống nhất, bao gồm lợi ích thuế từ KHT càng lớn GTDN càng cao (mối quan hệ thuận chiều), lợi ích thuế từ KHT càng thấp GTDN càng cao (mối quan hệ ngược chiều), hoặc KHT không ảnh hưởng đến GTDN.

Đa số các nghiên cứu cho kết quả công ty khai thác tốt lợi ích thuế (chi phí thuế giảm) và GTDN sẽ gia tăng, cụ thể như sau: Theo Kawor & Kportorgbi

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 12/02/2023