Giải Pháp Nhằm Đẩy Mạnh Việc Tách Quyền Chủ Sở Hữu Ra Khỏi Quyền Quản Trị Doanh Nghiệp Trong Các Doanh Nghiệp Nhà Nước

hợp lý. Xây dựng một đội ngũ những người làm công tác quản lý doanh nghiệp mới có trình độ chuyên môn, phẩm chất chính trị: tạo mọi điều kiện thuận lợi và các biện pháp hỗ trợ người lao động nâng cao năng suất, giảm chi phí nguyên vật liệu và giá thành sản phẩm, tạo lợi nhuận cho Nhà nước cũng như người lao động, để bảo toàn và phát triển nguồn vốn của Nhà nước.‌

II. GIẢI PHÁP NHẰM ĐẨY MẠNH VIỆC TÁCH QUYỀN CHỦ SỞ HỮU RA KHỎI QUYỀN QUẢN TRỊ DOANH NGHIỆP TRONG CÁC DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC

2.1 Làm rõ và thực hiện tốt chức năng quản lý nền kinh tế của Nhà nước đối với các doanh nghiệp.

Việc phân định rõ chức năng quản lý hành chính của các cơ quan hành chính Nhà nước với quản lý sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước giúp cho doanh nghiệp nhà nước thực sự thực hiện được quyền tự chủ kinh doanh, linh hoạt và thích nghi với cơ chế kinh tế thị trường, có tác dụng thúc đẩy quá trình cải cách hành chính, nâng cao hiệu quả hoạt động và chức năng quản lý nhà nước của các cơ quan hành chính nhà nước. Cùng với việc tách chức năng quản lý nhà nước với chức năng sản xuất kinh doanh còn cần phân biệt rõ hoạt động hành chính với hoạt động sự nghiệp, dịch vụ công trong các cơ quan hành chính nhà nước để tạo điều kiện cho các cơ quan này tập trung vào thực hiện nhiệm vụ chủ yếu của quản lý hành chính nhà nước, không can thiệp cụ thể để đảm bảo sự tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các doanh nghiệp nhà nước.

Nhà nước cần quản lý các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau bằng pháp luật, bằng các công cụ, phương tiện công nghệ thông tin hữu hiệu. Các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế khác nhau đều bình đẳng với nhau trước pháp luật, do vậy cần phải nghiên cứu sửa đổi, bổ sung hoàn chỉnh Luật và các văn bản dưới Luật có liên quan đến doanh nghiệp và doanh nghiệp nhà nước. Cần tạo được những đối xử bình đẳng giữa

doanh nghiệp nhà nước với các doanh nghiệp thuộc những thành phần kinh tế khác bằng cách gỡ bỏ những ưu đãi, những đặc quyền đối với doanh nghiệp nhà nước trong các lĩnh vực như tuyển dụng lao động, vay vốn ngân hàng, chính sách bảo vệ tài nguyên môi trường… Ví dụ trong lĩnh vực vay vốn ngân hàng, nên bãi bỏ hình thức bảo lãnh hành chính của các cơ quan chủ quản cấp trên cho các doanh nghiệp nhà nước. Hiện vẫn còn có những quy định đối xử không công bằng của ngân hàng đối với các công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn và các doanh nghiệp nhà nước theo hướng giành thuận lợi nhiều hơn cho doanh nghiệp nhà nước.

Tại nghị quyết Đại hội Đảng X đã xác định đến hết năm 2009 phải tiến hành sắp xếp xong các doanh nghiệp nhà nước hoạt động sản xuất kinh doanh theo hướng cổ phần hóa hoặc giao bán, khoán doanh nghiệp mà Nhà nước không cần giữ cổ phần chi phối. Do đó cần có nghị định hướng dẫn để đến sau năm 2009 này tất các cả doanh nghiệp hoạt động tại Việt Nam đều phải tuân thủ thực hiện theo một nguồn Luật. Các doanh nghiệp không phân biệt sở hữu đều phải có trách nhiệm đóng góp chi phí bảo vệ môi trường theo nguyên tắc làm ảnh hưởng nhiều đến môi trường thì đóng góp nhiều, có những hoạt động bảo vệ môi trường thì được khuyến khích.

Tóm lại, nhà nước cần tập trung vào 3 vấn đề lớn sau 53: (1) Xây

dựng, ban hành hệ thống văn bản pháp luật đầy đủ, đồng bộ, thống nhất tạo khung pháp lý cho doanh nghiệp nhà nước hoạt động; xác định chiến lược, quy hoạch phát triển chung cho các ngành, các lĩnh vực; xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật, ổn định kinh tế vĩ mô và môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp nhà nước hoạt động; (2) Tổ chức hướng dẫn thực hiện pháp luật như tổ chức đăng ký kinh doanh, lưu giữ các thông tin cơ bản về doanh nghiệp nhà nước, theo dõi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước, đảm


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 115 trang tài liệu này.

53 Hoàng Hà (2005) Quá trình đđi mới cơơ chếế quản lý doanh nghiệp nhà nưưc ởViệt Nam từ1986 đđếến nay, thực trạng và giải pháp, ĐĐi học Kinh tếế Quốc dân.

bảo để các doanh nghiệp nhà nước hoạt động theo đúng điều kiện quy định tại quyết định thành lập và đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật. Ngoài ra nhà nước xây dựng, quy hoạch và tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý doanh nghiệp; (3) Thanh tra, kiểm tra, giám sát việc chấp nhà pháp luật, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm theo quy định của pháp luật.

Mô hình quản trị: tách quyền chủ sở hữu ra khỏi quyền quản trị doanh nghiệp trong các doanh nghiệp nhà nước - 11

2.2 Tiếp tục sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước

Nghị quyết Hội nghị lần thứ III Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX đã nêu rõ mục tiêu cơ bản của sắp xếp, đổi mới và phát triển doanh nghiệp nhà nước là nhằm nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước, để doanh nghiệp nhà nước góp phần quan trọng bảo đảm các sản phẩm, dịch vụ công ích thiết yếu của xã hội và nhu cầu cần thiết của quốc phòng, an ninh, là lực lượng nòng cốt đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và tạo nền tảng cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Trong thời gian qua, nước ta đã tích cực sắp xếp, điều chỉnh cơ cấu doanh nghiệp nhà nước hiện có, cổ phần hóa những doanh nghiệp mà Nhà nước không cần giữ 100% vốn; sáp nhập, giải thể, phá sản những doanh nghiệp hoạt động không có hiệu quả; giao bán, khóa kinh doanh, cho thuê các doanh nghiệp quy mô nhỏ, không cổ phần hóa được và Nhà nước không cần nắm giữ; đồng thời thực hiện chế độ công ty trách nhiệm hữu hạn đối với doanh nghiệp Nhà nước giữ 100% vốn… Cần tiếp tục thực hiện việc sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước bằng các biện pháp đa dạng (ví dụ như sáp nhập các doanh nghiệp nhà nước để giảm đầu mối; giải thể, tổ chức lại bộ máy và thay đổi nhân sự, bán toàn bộ hay một phần tài sản của doanh nghiệp, cho thuê tài sản nhà xưởng mặt bằng, khoán quản lý doanh nghiệp; đặc biệt là đẩy nhanh và hoàn thành tiến trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước) nhằm loại bỏ những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, sản xuất kinh doanh kém

hiệu quả và dồn vốn vào các doanh nghiệp còn lại. Việc sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước sẽ đem lại những kết quả tích cực, khu vực doanh nghiệp nhà nước được lành mạnh hóa, thích ứng và năng cao khả năng cạnh tranh, hiệu quả sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế thị trường.

2.3 Tăng cường việc quản lý vốn của Nhà nước đối với nguồn vốn Nhà nước trong các doanh nghiệp.

Vốn hóa toàn bộ tài sản nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước kể cả là giá trị quyền sử dụng đất có thời hạn. Nhà nước sẽ quản lý vốn theo tính hiệu quả sinh lời trên nguồn vốn đầu tư chứ không phải là quản lý hiện vật của các doanh nghiệp nhà nước. Các doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh doanh cần đánh giá lại tài sản của mình. Nhà nước giao cho doanh nghiệp nguồn vốn này và chỉ quản lý giá trị đã được giao, còn hiện vật dưới hình thức nào là thuộc quyền quản trị của doanh nghiệp nhà nước miễn là các doanh nghiệp này sử dụng có hiệu quả. Nhà nước sở hữu vốn của doanh nghiệp còn pháp nhân doanh nghiệp sở hữu các tài sản cụ thể của doanh nghiệp, như vậy đã tách biệt giữa quyền của chủ sở hữu pháp nhân và quyền của pháp nhân đó.

Khi đã công ty hóa doanh nghiệp nhà nước thì các quyết định bên trong của doanh nghiệp do doanh nghiệp tự định đoạt. Nhà nước chỉ có nhiệm vụ là kiểm soát hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp thông qua hiệu quả tài chính. Doanh nghiệp nhà nước tự chủ về tiền lương, tiền thưởng, các phục lợi tập thể… còn Nhà nước kiểm soát tỷ suất sinh lời trên vốn của Nhà nước để đảm bảo suất sinh lời trên vốn của Nhà nước, bảo đảm và phát triển nguồn vốn.

Theo chỉ thị số 316/CP của Hội đồng bộ trưởng, các doanh nghiệp nhà nước được trao quyền sử dụng và trách nhiệm bảo toàn vốn sản xuất kinh doanh hay gọi là khoán vốn. Với hình thức khoán vốn về cơ bản là không tách được chức năng sở hữu ra khỏi chức năng kinh doanh, sự can thiệp của bộ máy hành chính nhà nước vào các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp

chưa được khắc phục. Vấn đề doanh nghiệp tự chịu lỗ lãi không được giải quyết vì muốn bù lỗ phải lấy vốn tự có hoặc nâng giá sản phẩm mà vốn tự có thì khó khăn, nếu nâng giá thì lại không bán được sản phẩm. Hơn nữa hệ số khoán trong từng chu kỳ nhận khoán là không thay đổi nên các yếu tố sản xuất kinh doanh khó di chuyển được, doanh nghiệp không thể chủ động. Do đó đề xuất việc khoán lợi nhuận cho các doanh nghiệp nhà nước.

Khoán lợi nhuận cũng có nghĩa là chủ sở hữu chỉ quản lý bằng lợi nhuận, chủ sở hữu nắm được lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận của doanh nghiệp mà giám đốc tạo ra cho mình. Về phía giám đốc thì có toàn quyền sử dụng toàn bộ tài sản vốn liếng của doanh nghiệp miễn là không vi phạm các quy định của pháp luật, quy định tài chính do chủ sở hữu đề ra. Nếu tiết kiệm được các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất kinh doanh để tạo ra thêm được lợi nhuận thì tiền lương, tiền thưởng của giám đốc càng cao và ngược lại nếu không đạt được tỷ suất lợi nhuận tối thiểu theo quy định thì giám đốc phải chịu trách nhiệm theo khế ước đã thỏa thuận. Với tư cách là người làm công, các giám đốc được thuê rất sợ mất việc, giảm nguồn thu từ họat động chuyên môn của mình, thứ nữa là danh dự và địa vị xã hội cho nên giám đốc phải tìm mọi cách để duy trì sự phát triển của doanh nghiệp trên cơ sở là tạo ra nguồn lợi nhuận ngày càng cao trong kinh doanh.

2.4 Xây dựng, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của cơ quan quản lý vốn Nhà nước tại doanh nghiệp.

Các doanh nghiệp nhà nước chịu sự kiểm tra, quản lý, giám sát của pháp luật nói chung và của các Bộ quản lý chuyên ngành ở từng lĩnh vực nói riêng. Các Bộ trưởng được Thủ tướng Chính phủ ủy quyền làm đại diện chủ sở hữu nhà nước, phải xây dựng được cơ quan tham mưu riêng cho quản lý doanh nghiệp phù hợp với đặc thù ngành và kinh tế quốc tế. Như vậy chỉ có một cơ quan chịu trách nhiệm duy nhất trước Nhà nước, trước pháp luật về việc bảo toàn và phát triển các loại vốn thuộc sở hữu chung toàn dân; giải

quyết nhanh chóng, kịp thời và thống nhất những vấn đề phát sinh trong thực tiễn về tài sản, vốn của Nhà nước trong quá trình hoạt động của các loại hình doanh nghiệp nhà nước.


Hình 7: Sơ đồ mô hình tổ chức quản lý vốn của doanh nghiệp nhà nước cấp Chính phủ.

Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước (SCIC – State Capital Investment Corporation) là mô hình mới mẻ của Việt Nam, chính thức hoạt động từ ngày 17/12/2006. Vậy nhưng SCIC lại thực hiện quyền sở hữu nhà nước đối với một số tiền khổng lồ và với danh mục đầu tư hết sức đa dạng. Theo thống kê của SCIC, tính đến ngày 28/2/2009 cơ quan này đang quản lý 776 doanh nghiệp, tổng giá trị mà SCIC nhận bàn giao (tính đến cuối năm 2008) là 6924 tỷ đồng. Đến 2010 khi mà quá trình cổ phần hóa được thực hiện xong nếu chỉ khoảng 1/3 số vốn nhà nước chuyển cho SCIC thì họ

đã quản lý danh mục tài sản đến 10 tỷ đôla. Do đó việc hoàn thiện tổ chức và hoạt động của SCIC có ý nghĩa quan trọng:

- Khẩn trương tăng cường năng lực quản lý, điều hành, kể cả bổ sung chức năng, nhiệm vụ cho SCIC. Thường xuyên đánh giá để xác định năng lực của SCIC, tính toán khả năng được nhà nước giao thực thi quyền sở hữu. Cho phép SCIC tuyển dụng chuyên gia tài chính nước ngoài, xác lập cơ chế lương, thưởng cho nhà quản lý, cho nhân viên…

- Hoàn thiện quy chế pháp lý và cụ thể hóa điều lệ cho SCIC theo quy luật kinh tế thị trường, ngăn chặn việc cơ quan nhà nước can thiệp hoạt động của SCIC, cho phép SCIC được hợp tác kinh doanh với các tổ chức kinh tế, tài chính quốc tế có uy tín để nâng cao hiệu quả đầu tư, học tập thêm các kinh nghiệm quản lý.

- Thực hiện nghiêm túc việc chuyển phần vốn nhà nước (của Bộ, địa phương) ở các doanh nghiệp nhà nước đã chuyển đổi cho SCIC. Thí điểm chuyển phần vốn nhà nước ở một số Tổng công ty cho SCIC.

- Nhà nước chỉ nên đặt mục tiêu duy nhất cho SCIC là tối đa hóa giá trị vốn nhà nước và hàng năm SCIC được khoán một khoản cố tức cố định cho nhà nước. Ngoài mức cổ tức cố định này SCIC được quyền quyết định phân chia lương, thưởng theo pháp luật. Ban hành cơ chế đặc thù về kiểm toán, giám sát và công khai, minh bạch, niêm yết cho SCIC để đảm bảo sự kiểm soát của nhà nước, sự giám sát của dân chúng và các cổ đông liên quan.

- Xác định ngành, lĩnh vực cho SCIC được phép đầu tư để SCIC đầu tư những ngành quan trọng thiết yếu, tránh đầu tư ngành doanh nghiệp ngoài quốc doanh có thể đầu tư được. Hạn chế nắm giữ phần vốn nhà nước ở các công ty độc lập quy mô vừa và nhỏ.


Hình 8: Mô hình tổ chức quản lý vốn của doanh nghiệp nhà nước tại các bộ quản lý ngành.

Cần chuyển đổi một cách hữu hiệu từ phương thức đầu tư, quản lý và sử dụng vốn của Nhà nước theo cách quản lý hành chính thông qua việc cấp phát vốn từ ngân sách Nhà nước sang phương thức đầu tư, quản lý và sử dụng vốn của Nhà nước theo phương thức hạch toán kinh doanh đối với quá trình đầu tư vốn cho các loại hình doanh nghiệp nhà nước. Với phương thức hạch toán kinh doanh này nhằm đảm bảo các mục tiêu đã đề ra, thực hiện những chỉ tiêu hiệu quả về kinh tế, chính trị, xã hội.

2.5 Tăng cường hệ thống chế định của Nhà nước đối với các doanh nghiệp nhà nước

2.5.1 Hoàn thiện công cụ pháp luật

Nhắc đến cơ chế thị trường là sự phong phú, đa dạng của các sản phẩm hàng hóa dịch vụ, kết quả của sự tự do linh hoạt và tính mềm dẻo năng động trong sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên cũng không thể tự do ăn cắp, tự do dùng tài sản của Nhà nước để kinh doanh bất hợp pháp nhằm mục đích vun vén cho cá nhân đặc quyền, đặc lợi. Pháp luật ra đời ngoài chức năng tạo hành lang cho các doanh nghiệp tự do hoạt động còn góp phần tích cực vào việc

Xem tất cả 115 trang.

Ngày đăng: 05/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí