luận, không biến lý luận thành phương pháp nhận thức, phương pháp hành động, phương pháp để ứng dụng trong công tác. Và cũng do không nắm được nội dung lý luận nên nhiều cán bộ còn nặng về tư duy kinh nghiệm, rơi vào tầm nhìn hạn hẹp, tổ chức công việc lúng túng, thiếu bài bản, thiếu khoa học.
Do sự thiếu hiểu biết về vai trò của lý luận, nhận thức lý luận còn nông cạn, nên trước những biến đổi nhanh chóng, phức tạp của tình hình thế giới và khu vực cùng với những thay đổi của tình hình đất nước, công tác nghiên cứu lý luận bộc lộ những yếu kém, bất cập, chưa theo kịp sự phát triển của thực tiễn và yêu cầu của sự nghiệp đổi mới. Đối với công tác nghiên cứu lý luận, chúng ta chưa đủ năng lực đi sâu vào những vấn đề gay cấn của thực tiễn để nhận thức, để chỉ ra bản chất và quy luật của nó, bởi vậy có sự thật còn né tránh, nhất là những vấn đề nhạy cảm, những sự thật gai góc, những yếu kém, khuyết điểm. Đây vừa là thực trạng, vừa là nguyên nhân của những hạn chế trong nghiên cứu lý luận và công tác lý luận nói chung và điều này là yếu tố kìm hãm việc nâng cao trình độ tư duy chiến lược của người cán bộ lãnh đạo.
Trong những năm đổi mới, đất nước ta đã đào tạo một đội ngũ đông đảo cán bộ lý luận, họ công tác, giữ vị trí ở nhiều đơn vị khác nhau: ở các học viện, viện nghiên cứu, trường đại học, các trung tâm nghiên cứu... Đội ngũ cán bộ này nhìn chung có bản lĩnh chính trị vững vàng, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, được đào tạo về chuyên môn, tâm huyết với nghề nghiệp. Tuy nhiên, với số lượng và chất lượng của đội ngũ cán bộ lý luận như hiện nay thì còn nhiều bất cập, hẫng hụt, cụ thể: số cán bộ trẻ chưa thay thế được cán bộ nhiều tuổi; số cán bộ có học vị (thạc sĩ, tiến sĩ), học hàm (phó giáo sư, giáo sư) tăng lên nhưng chất lượng khoa học chưa tăng nhiều. Đội ngũ bị hẫng hụt, tiềm lực khoa học mỏng, hầu như chưa có cán bộ đầu đàn tầm cỡ quốc tế; trình độ ngoại ngữ yếu kém, số cán bộ có thể tự tham gia tranh luận trong các hội thảo quốc tế bằng ngoại ngữ rất hiếm, số người có thể thuyết giảng bằng ngoại ngữ lại càng hiếm hơn. Số các bài báo về khoa học xã hội được đăng trên các tạp chí quốc tế, nhất là các tạp chí thuộc diện chỉ số ISI, Scopus... gần đây có tăng lên; song, vẫn còn thấp so với nhiều nước trong khu vực.
Nhìn chung, đội ngũ cán bộ lý luận hiện nay còn thiếu về số lượng, yếu về chất lượng, nhất là về chuyên môn, nghiệp vụ. Nghị quyết số 01-NQ/TW, của Bộ Chính trị khóa VII về công tác lý luận nhận định: “Đội ngũ cán bộ lý luận chưa đồng bộ và nói chung trình độ chưa ngang tầm đòi hỏi của sự nghiệp cách mạng. Đặc biệt là còn rất thiếu những chuyên gia lý luận đầu đàn trên các lĩnh vực trọng yếu”. Đến nay, sau hơn 25 năm, nhận định này vẫn còn đúng. Đây là một thực trạng mà đất nước ta cần nhanh chóng có những giải pháp khắc phục.
Việc đẩy mạnh công tác tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận là hai nội dung cần phải được chú trọng và tiến hành song song bởi lý luận và thực tiễn có mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại. Thời gian qua, mặc dù hai nội dung này được chú trọng hơn, nhưng kết quả chưa đáp ứng được thực tiễn. Muốn nâng cao trình độ tư duy chiến lược ở đội ngũ cán bộ lãnh đạo thì đây là nội dung thực sự cần thiết phải được chú trọng quan tâm bồi dưỡng đối với đội ngũ này. Tư duy chiến lược không thể không xuất phát từ việc nắm bắt thực tiễn thấu tỏ và cũng không thể thiếu tư duy lý luận khoa học để nhìn nhận và tổng kết những vấn đề trong lòng thực tiễn.
4.2.3. Đẩy mạnh việc học tập tư tưởng, đạo đức và phong cách tư duy nhìn xa trông rộng của Hồ Chí Minh
Có nhiều phương pháp để rèn luyện tư duy chiến lược, trong đó việc học tập tư tưởng, đạo đức và phong cách, phương pháp tư duy Hồ Chí Minh là phương pháp đặc biệt quan trọng. Những nét đặc sắc trong phong cách tư duy Hồ Chí Minh góp phần từng bước hình thành, xây dựng phong cách tư duy chiến lược cho cán bộ đảng viên nói chung, cán bộ lãnh đạo nước ta nói riêng được thể hiện ở những khía cạnh sau:
Thứ nhất, học tập phong cách tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, thiết thực gắn với thực tiễn đất nước và thời đại. Đầy là phong cách tư duy vừa có tính thời đại vừa có tính dân tộc, vừa có giá trị phổ biến bền vững vừa có tính độc đáo rất riêng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định. Phong cách tư duy này khiến suy nghĩ luôn gắn liền với hành động, lời nói luôn gắn liền với việc làm. Chính Người đã gương mẫu làm trước, làm nhiều hơn nói và viết, khiêm tốn tiếp thu ý
Có thể bạn quan tâm!
- Nâng cao trình độ tư duy chiến lược cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở nước ta hiện nay - 15
- Chương Trình Đào Tạo, Bồi Dưỡng Đội Ngũ Cán Bộ Lãnh Đạo Chưa Thực Sự Góp Phần Nâng Cao Hiệu Quả Trình Độ Tư Duy Chiến Lược Đáp Ứng Yêu Cầu
- Đổi Mới Công Tác Lựa Chọn, Tuyển Dụng Đội Ngũ Cán Bộ Lãnh Đạo Các Cấp Đáp Ứng Nhu Cầu Nâng Cao Trình Độ Tư Duy Chiến Lược
- Coi Trọng Việc Học Tập Và Rèn Luyện Phương Pháp Tư Duy Biện Chứng Duy Vật
- Nâng cao trình độ tư duy chiến lược cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở nước ta hiện nay - 20
- Nâng cao trình độ tư duy chiến lược cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở nước ta hiện nay - 21
Xem toàn bộ 175 trang tài liệu này.
kiến của của đồng chí, đồng bào với thái độ ân cần và thận trọng. Người cán bộ lãnh đạo một mặt cần phải học tập để thấu hiểu một cách sâu sắc phép biện chứng duy vật nói riêng, những tư tưởng của chủ nghĩa Mác-Lênin nói chung. Mặt khác, người cán bộ lãnh đạo cần phải tham gia, hòa mình vào thực tiễn, rèn luyện trong thực tiễn. Chính thực tiễn đa dạng, phong phú, muôn màu, muôn vẻ luôn đặt ra những tình huống, những vấn đề không có tiền lệ trong lịch sử đòi hỏi phải được giải quyết. Và để giải quyết những vấn đề của thực tiễn đặt ra, yêu cầu người cán bộ lãnh đạo phải vận dụng tổng hợp các nguyên lý, quy luật, phạm trù của phương pháp tư duy biện chứng duy vật. Đây chính là điều kiện quan trọng giúp cho người cán bộ lãnh đạo phát hiện ra, tự ý thức được những hạn chế, thiếu hụt của bản thân; là cơ sở quan trọng cho sự hình thành và củng cố tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, thiết thực, gắn với thực tiễn. Từ đó xác định được những điều cần bổ sung, hoàn thiện đáp ứng được sự vận động, phát triển của thời đại.
Thứ hai, học tập phương pháp kết hợp nhuần nhuyễn giữa tính khoa học và tính cách mạng, giữa lập trường, quan điểm và phương pháp nhận thức hành động ở Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nhiều nhà khoa học thế giới, sau khi nghiên cứu về Hồ Chí Minh cho rằng, phong cách tư duy Hồ Chí Minh là sự thống nhất đạt đến đỉnh cao giữa trình độ hiểu biết sâu rộng về lý luận và thực tiễn cách mạng với kỹ năng thành thạo về tổ chức thực hiện nhiệm vụ. Phong cách tư duy Hồ Chí Minh là sự kết hợp hài hoà giữa óc khoa học, nhiệt tình cách mạng và lòng trung thành vô hạn với lý tưởng cộng sản với cách làm việc thiết thực và hiệu quả. Trên cơ sở phong cách tư duy của Hồ Chí Minh, Người cán bộ lãnh đạo cần phải không ngừng học tập, nâng cao tri thức về mọi mặt, bên cạnh đó cần phải tu dưỡng cả ý chí và tình cảm cách mạng. Học tập, nâng cao tri thức ở đây nhằm khắc phục sự thiếu hụt về tri thức trong cả lĩnh vực về khoa học tự nhiên và khoa học xã hội nhân văn, cả mặt lý luận và những kinh nghiệm thực tiễn, tìm tòi những cái chưa từng có trong tiền lệ, vạch ra những hướng đi mới, cách làm hay. Đối với việc rèn luyện ý chí và tình cảm cách mạng sẽ góp phần tác động đến những mục đích mà người cán bộ lãnh đạo có xu hướng hướng tới. Những mục
đích mà chủ thể hướng tới lại có tác động ngược trở lại đến nhận thức và tư duy của họ. Nếu có được đạo đức cách mạng trong sáng, vì lợi ích chung của nhân dân, của đất nước sẽ dẫn đến tầm nhìn với tư duy dài hạn, vượt qua được những hạn hẹp của chủ nghĩa cá nhân. Trong cả sự nghiệp cách mạng của mình, tất cả những vấn đề lý luận được Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp thu, vận dụng đều gắn với thực tiễn. Phong cách tư duy của Người chính là phong cách tư duy hướng tới thực tiễn, gắn với thực tiễn, đem lại lợi ích thiết thực cho quần chúng nhân dân, cho những người dân lao động. Học tập phong cách ấy, người cán bộ lãnh đạo biết hướng tư duy vào những vấn đề của thực tiễn cuộc sống, của sự nghiệp đổi mới, vào thực tế sôi động đang không ngừng biến đổi từng ngày, từng giờ nhằm thấu hiểu, nắm bắt được nó, có những sự tác động phù hợp từ chủ trương, đường lối tới những hành động cụ thể mang lại những kết quả thiết thực cho đất nước.
Thứ ba, học tập khả năng kết hợp nhuần nhuyễn tri thức, văn minh hiện đại với truyền thống văn hoá phương Đông, kết hợp phong cách làm việc khoa học, hiện đại với cốt cách truyền thống dân tộc Việt Nam. Hơn 30 năm trên hành trình tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã đi nhiều nơi, làm nhiều nghề và được tận mắt chứng kiến nhiều cuộc đời, nhiều số phận của những con người khác nhau. Trên con đường đó, Người đã trau dồi cho mình vốn ngoại ngữ phong phú, nhờ vậy mà Người có thể tiếp xúc được với thành tựu tri thức của nhân loại, tự học hỏi để rút ra những kiến thức bổ ích cho bản thân trên nhiều lĩnh vực khác nhau, về chính trị, quân sự, về kinh tế, khoa học, văn hoá và nghệ thuật. Cũng chính những điều này tạo nền tảng vững chắc, làm cho tư duy Hồ Chí Minh uyên bác cả về bề rộng và bề sâu, đạt đến đỉnh cao của trí tuệ nhân loại. Với tầm nhìn xa rộng, tinh tế và sắc sảo, Hồ Chí Minh đã nêu ra những dự báo thiên tài về sự phát triển của cách mạng Việt Nam và thế giới. Người có những quyết định đúng đắn trong giải quyết các tình huống khó khăn, phức tạp, "ngàn cân treo sợi tóc". Rõ ràng, ở Hồ Chí Minh là sự kết hợp nhuần nhuyễn tư duy hiện đại và tư duy truyền thống, tư duy biện chứng duy vật Mác - Lênin và phong cách, trình độ, kinh nghiệm của Hồ Chí Minh. Bằng việc tiếp thu, vận dụng và phát triển tư duy biện chứng duy vật Mác - Lênin, Người đã tạo nên nét
đặc trưng phong cách tư duy Hồ Chí Minh vừa có cái chung là tư duy biện chứng duy vật Mác - Lênin, vừa mang nét đặc sắc riêng biệt Hồ Chí Minh.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương sáng về việc hiểu biết và vận dụng linh hoạt sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý luận mácxít với tư duy phương Đông. Với những đặc trưng riêng của mình, văn hóa và tư duy phương Đông mang trong nó những nét đặc sắc và giá trị bền vững. Hơn thế, đó là lối suy nghĩ, tập tục đã ăn sâu vào tiềm thức và lối sống của người dân, bởi vậy, việc hiểu, nắm rõ và vận dụng lối tư duy đặc trưng này cũng là điều quan trọng đối với cương vị người cán bộ lãnh đạo. Bản thân Hồ Chí Minh đã hiểu, vận dụng và là tấm gương mẫu mực trong việc vận dụng một cách tài tình văn hóa phương Đông thành phong cách tư duy riêng của mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh có quan niệm rằng: một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền, cũng có khi chẳng cần nói mà làm, thấy làm đúng thì theo. Hồ Chí Minh đã thường xuyên chứng minh lý luận bằng thực tiễn, bằng hành động, việc làm cụ thể, thiết thực xuất phát từ sự thấu hiểu quan niệm đó. Trên thực tiễn, về mặt tư duy lý luận, tư duy lôgic thì người Việt Nam không bằng người phương Tây, bởi vậy, việc thấu hiểu và biến những học thuyết, lý luận thành hành động cụ thể chính là biện pháp tác động phù hợp tới đông đảo quần chúng nhân dân. Người cán bộ lãnh đạo hiểu và thực hiện được những điều đó góp phần không nhỏ vào công cuộc phát triển nhận thức nói riêng, những biến đổi nâng tầm năng lực về mọi mặt cho người dân nói chung.
Thứ tư, học tập khả năng tư duy được thể hiện bằng ngôn ngữ trong sáng, giản dị, phổ thông, dễ hiểu, dễ xâm nhập vào quần chúng của Bác Hồ. Suốt đời hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh chỉ có một mục đích duy nhất là phấn đấu cho độc lập, tự do của Tổ quốc và hạnh phúc của nhân dân. Người đề cao vai trò của quần chúng nhân dân và cho rằng, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, để cách mạng thành công thì người cán bộ phải đi vào quần chúng, cùng ăn, cùng ở, cùng bàn, cùng làm việc với họ, suy nghĩ và nói bằng ngôn ngữ của họ. Phải làm được như vậy, mới tập hợp, tổ chức, giáo dục và huấn luyện được quần chúng làm cách mạng. Hồ Chí Minh nghiêm khắc phê phán những cán bộ lên
mặt "quan cách mạng", thích nói điều to tát, hay lý luận, "chơi chữ" trước quần chúng nhân dân, làm cho vấn đề "bé xé ra to". Cách nói và làm việc như vậy khiến quần chúng nhân dân không hiểu, từ đó không thể thực hiện được công việc. Trước những vấn đề lý luận phức tạp, Người khuyên cán bộ khi tiếp xúc, nói chuyện với dân phải cắt nghĩa cho thật rõ ràng, có những ví dụ cụ thể, sinh động trong đời sống hàng ngày; nếu nói những điều cao siêu, vượt ngoài trình độ, hiểu biết của nhân dân thì sự cao siêu ấy vô nghĩa, dân không hiểu, không nắm được vấn đề, và vì vậy việc truyền tải nội dung lý luận tới nhân dân không có ích gì.
Để nâng cao trình độ tư duy chiến lược, người cán bộ lãnh đạo không chỉ học tập, trau dồi những kiến thức khoa học bắt kịp thời đại, nắm rõ về lý luận chủ nghĩa Mác, đặc biệt phương pháp tư duy biện chứng duy vật, có được kiến thức về văn hóa nhân loại cũng như văn hóa phương Đông, tập tục của người Việt, lối sống bản địa, mà còn phải biết hòa mình vào thực tiễn, bắt tay trực tiếp vào cả những công việc cụ thể nhằm có sự thấu hiểu từ gốc rễ, bản chất của vấn đề, của sự việc. Lý luận đúng đắn, cao siêu đến mấy, chủ trương, chính sách ưu việt như thế nào thì cái cốt lõi vẫn phải là người dân phải hiểu được, đồng lòng ủng hộ và làm theo. Biến những lý luận cao siêu thành những điều chân thành, giản dị để mọi người dân đều thấu hiểu sẽ tạo điều kiện cho người dân phát huy những khả năng của mình cũng như sẵn sàng chia sẻ quan điểm, suy nghĩ, nguyện vọng cũng như mạnh dạn đưa ra những đề xuất. Chính những điều này tạo điều kiện cho người cán bộ lãnh đạo dễ dàng thu thập thông tin từ nhân dân, là những chất liệu không thể thiếu trong quá trình hình thành nên những quyết sách mang tầm chiến lược.
Để xây dựng và rèn luyện tư duy chiến lược theo phong cách tư duy Hồ Chí Minh, cần tập trung vào những nội dung sau:
Một là, cần phải nâng cao năng lực tư duy biện chứng duy vật cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo hiện nay, nhất là năng lực suy luận, phân tích, tổng hợp, tổng kết, khái quát hoá, trừu tượng hoá và xử lý thông tin, ra quyết định, tạo ra tri thức mới phản ánh đúng đắn sự vận động phát triển không ngừng của thế giới khách
quan. Đây là một quá trình khổ luyện thành tài, rất gian nan, vất vả. Bởi lẽ, việc rèn luyện phương pháp tư duy biện chứng duy vật không phải tự phát, cũng không phải là học tập, rèn luyện một vài lần là xong rồi cứ thế mà khai thác mãi, mà là một quá trình rèn luyện thường xuyên, tự giác, là sự phấn đấu, đi cùng sự tồn tại của mỗi người. Vì vậy, đổi mới không ngừng việc giảng dạy và học tập, nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng thời tích cực rèn luyện phương pháp tư duy biện chứng duy vật là những vấn đề có ý nghĩa quyết định đối với việc nâng cao trình độ tư duy, nâng cao năng lực lãnh đạo cho đội ngũ cán bộ hiện nay.
Hai là, để rèn luyện nâng cao trình độ tư duy chiến lược theo phong cách tư duy Hồ Chí Minh, người cán bộ lãnh đạo cần phải tích cực rèn luyện trong thực tiễn, tham gia các hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động chính trị xã hội, hoạt động khoa học, giáo dục đào tạo. Việc học tập cần được người cán bộ lãnh đạo thực hiện một cách tự giác nhằm tích luỹ được nhiều tri thức, bao gồm cả kiến thức cơ bản và chuyên sâu, trước hết là ở lĩnh vực mà mình phụ trách.
Thực tế đã chỉ ra rằng, phần lớn cán bộ lãnh đạo, quản lý hiện nay đã được trang bị hệ thống kiến thức cơ bản, có cơ sở để hoàn thành chức trách, nhiệm vụ được giao. Tuy nhiên, để phát triển và hoàn thành tốt những trọng trách lớn hơn, nhiệm vụ nặng nề hơn, người cán bộ lãnh đạo cần phải tiếp tục bổ sung, phát triển, hoàn thiện mọi mặt, nhất là hệ thống tri thức. Bên cạnh đó, họ cũng cần rèn luyện cả về trạng thái tâm lý, bản lĩnh người lãnh đạo, quản lý trong thực hiện nhiệm vụ được giao. Do vậy, tăng cường rèn luyện đội ngũ cán bộ lãnh đạo trong thực tiễn là một yêu cầu cơ bản để nâng cao năng lực lãnh đạo của họ. Thực tiễn lãnh đạo, tổ chức quản lý đơn vị, trực tiếp giải quyết các nhiệm vụ cụ thể là những cơ hội, điều kiện tốt để mỗi người cán bộ lãnh đạo có điều kiện kiểm nghiệm lại những tri thức, nguyên lý, qui luật, thực hành những thao tác nghiệp vụ đã được đào tạo tại trường. Bằng cách thức như vậy sẽ từng bước bổ sung, hoàn thiện hệ thống tri thức, chuyển hoá những tri thức lý luận đã học thực sự thành tri thức của mình, tri thức lý luận được vận dụng sáng tạo vào công tác lãnh đạo, quản lý trong thực tiễn của người cán bộ.
Hoạt động thực tiễn không chỉ là cơ sở để kiểm tra lý luận, mà còn là cơ sở để người cán bộ khái quát và tổng kết kinh nghiệm, từ đó tiếp tục đưa ra kết luận đúng đắn, những quyết định chính xác, những giải pháp tối ưu phù hợp với thực tiễn. Qua thực tiễn lãnh đạo, với những thành công và thất bại sẽ làm cho người cán bộ có ý thức và căn cứ xác định rõ ràng hơn về những sai lầm chủ quan, giản đơn, xa rời thực tế, tự thấy rõ sự cần thiết phải điều chỉnh lại nhận thức, suy nghĩ và hành động cho phù hợp với hiện thực khách quan. Cũng nhờ đó, tính độc lập, sáng tạo và năng động của tư duy mới được phát huy, được khẳng định và phát triển. Trình độ tư duy, nhất là tư duy khoa học, không phải là sự vận động tự nhiên của bộ não mà là sự vận động mang tính trí tuệ của con người, là thành quả mang lại trong quá trình con người tìm tòi, khám phá, nhận biết, sáng tạo trong quan hệ với tự nhiên và xã hội. Ph.Ănghen từng khẳng định: “Nhưng tư duy khoa học chỉ là một đặc tính bẩm sinh dưới dạng năng lực của con người mà thôi. Năng lực ấy cần phải được phát triển hoàn thiện, và muốn hoàn thiện nó thì cho đến nay, không có một cách nào khác hơn là nghiên cứu toàn bộ triết học của thời trước” [62, tr.487]. Quá trình học tập, rèn luyện tư duy của Hồ Chí Minh là quá trình phấn đấu kiên trì, học tập không mệt mỏi, là bài học quý báu có ý nghĩa thiết thực đối với mỗi người cán bộ lãnh đạo.
Ba là, muốn nâng cao năng lực và trình độ tư duy chiến lược theo phong cách tư duy Hồ Chí Minh, ngoài các vấn đề nêu trên cần phải thay đổi nhiều yếu tố, điều kiện sống, học tập, rèn luyện và làm việc của chủ thể tư duy như: đổi mới nội dung chương trình và công nghệ đào tạo nhằm nâng cao trình độ học vấn cho cán bộ lãnh đạo để phù hợp với nền văn minh công nghiệp, tin học; xây dựng cơ chế dân chủ trong sinh hoạt lý luận, trong tranh luận, xoá bỏ cơ chế áp đặt, quan liêu, bao cấp. Đổi mới và nâng cao chất lượng công tác thông tin phục vụ cán bộ lãnh đạo. Quan trọng nhất là nâng cao năng suất lao động, hiệu quả kinh tế, thực hiện thắng lợi công nghiệp hoá, hiện đại hoá, không ngừng cải thiện nâng cao đời sống vật chất, tinh thần văn hoá, giáo dục cho nhân dân.