Coi Trọng Việc Học Tập Và Rèn Luyện Phương Pháp Tư Duy Biện Chứng Duy Vật


4.2.4. Coi trọng việc học tập và rèn luyện phương pháp tư duy biện chứng duy vật

Nói đến tư duy chiến lược là nói đến khả năng tư duy với tầm nhìn xa trông rộng, khả năng bao quát, khái quát, đưa ra những chủ trương, kế hoạch đúng đắn cho sự phát triển trong tương lai. Để có được tư duy chiến lược thì người cán bộ lãnh đạo nói chung trước hết cần được bồi dưỡng, trau dồi phương pháp biện chứng duy vật. Phương pháp biện chứng duy vật giúp chủ thể đi sâu nhận thức bản chất của sự vật, hiện tượng, nắm bắt được logic phát triển, gạt bỏ cái bề ngoài, ngẫu nhiên, ngăn ngừa, khắc phục bệnh kinh nghiệm, giáo điều, giúp phát hiện ra mâu thuẫn, vấn đề cần phải giải quyết.

Phương pháp biện chứng duy vật ra đời không phải ngay từ đầu đã đạt được quan niệm khoa học, mà trải qua lịch sử phát triển, cùng những sự biến đổi của thực tiễn, sự phát triển của tư duy nhân loại, tư duy triết học. Cho tới C.Mác và Ph.Ănghen mới sáng tạo ra được một quan niệm thật sự khoa học về phương pháp biện chứng. Hai ông đã xây dựng phương pháp biện chứng trên cơ sở quan niệm duy vật về quá trình lịch sử và sự phát triển của nhận thức, trên cơ sở tổng kết những quá trình hiện thực đang xảy ra trong tự nhiên, trong xã hội và tư duy. Trong phương pháp biện chứng khoa học, những quy luật phát triển của tồn tại và của nhận thức được kết hợp một cách hữu cơ. Phương pháp biện chứng duy vật không chỉ là học thuyết về bản thể luận, mà còn là học thuyết nhận thức luận, là lôgíc học xem xét tư duy và nhận thức một cách như nhau trong sự hình thành và phát triển, bởi vì các sự vật và hiện tượng là cái mà chúng đang hình thành trong quá trình phát triển. Trong những sự vật và hiện tượng đó đã có sẵn tương lai của chúng với tính cách là xu thế, cái mà chúng sẽ trở thành.

Có thể nói, phương pháp biện chứng duy vật là phương pháp đỉnh cao của phương pháp tư duy khoa học. Cho tới nay, chỉ có phương pháp biện chứng duy vật mới có sự giải thích khoa học về những quá trình vận động, phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy, chỉ ra quy luật vận động của lịch sử, từ đó đem lại những giải pháp khoa học cho những vấn đề do cuộc sống đặt ra. Phương pháp biện chứng duy vật vạch ra phương hướng giải quyết những vấn đề của thực tiễn một


cách khoa học, triệt để. V.I.Lênin đã từng khẳng định phép biện chứng duy vật là “học thuyết về sự phát triển, dưới hình thức hoàn bị nhất, sâu sắc nhất và không phiến diện” [51, tr.53]. Phương pháp biện chứng duy vật không chỉ phản ánh đúng đắn thế giới khách quan, mà còn chỉ ra những cách thức cho con người trong nhận thức và cải tạo thế giới. Phương pháp biện chứng duy vật không chỉ khái quát những thành tựu của các nhà khoa học chuyên ngành, các khoa học cụ thể, mà nó còn kết tinh những tinh hoa trong quá trình phát triển tư tưởng triết học nhân loại.

Phương pháp biện chứng duy vật là phương pháp triết học nghiên cứu tự nhiên và xã hội. Theo quan điểm biện chứng, nghiên cứu sự vật, hiện tượng trong sự ràng buộc, quy định lẫn nhau, cái này là điều kiện, tiền đề cho cái kia; nghiên cứu sự vật trong sự vận động, biến đổi chuyển hóa không ngừng, trong đó có những yếu tố đang phát sinh phát triển, có những yếu tố đang suy vong; các sự vật, hiện tượng, quá trình đều hàm chứa những mâu thuẫn bên trong nó. Phương pháp biện chứng duy vật không dung hòa bất cứ sự bất động và trì trệ nào, điều đó làm cho nó trở thành công cụ cải tạo thực tiễn xã hội, giúp tính toán một cách khách quan tới những yêu cầu lịch sử của sự phát triển xã hội, tình trạng những hình thức và nội dung cũ không còn phù hợp phải chuyển đến sự phát triển cao hơn thúc đẩy sự tiến bộ của xã hội loài người. Với phép biện chứng thì phương pháp biện chứng nói chung, trong quá trình hình thành và phát triển của mình đã không ngừng giải quyết những vấn đề có tính căn cứ duy vật và hợp lý trước những hiện tồn của lịch sử xã hội loài người. Bằng phương pháp biện chứng duy vật giúp người cán bộ lãnh đạo xem xét sự vật, hiện tượng trong mối liên hệ, ràng buộc, chuyển hóa lẫn nhau, trong sự vận động, biến đổi không ngừng của chúng theo quy luật khách quan, từ đó xác định và giải quyết những mâu thuẫn, đưa ra định hướng cho hoạt động nhận thức và thực tiễn của chủ thể nhằm đạt được mục đích đã xác định.

Bên cạnh bản chất khoa học và cách mạng, phép biện chứng duy vật còn đem lại tính phê phán. Phép biện chứng duy vật không chỉ đối lập với phép biện chứng duy tâm, mà nó còn là phương tiện chủ yếu để khắc phục, ngăn ngừa


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 175 trang tài liệu này.

khuynh hướng tư duy dẫn đến nhận thức sai lầm các quy luật khách quan chi phối sự biến đổi của đời sống xã hội. Những khuynh hướng này biểu hiện ra bên ngoài thông qua hoạt động thực tiễn của con người làm cản trở, thậm chí tiêu diệt sự phát triển. Những khuynh hướng này được coi là những căn bệnh, đó là bệnh chủ quan, duy ý chí, bệnh kinh nghiệm, bệnh giáo điều. Tất cả những căn bệnh trên, nếu tồn tại ở người cán bộ lãnh đạo thì càng trở nên nghiêm trọng, cản trở sự phát triển của tư duy, sự phát triển của thực tiễn. Việc ngăn ngừa, khắc phục những căn bệnh này chính là quá trình xóa bỏ những nguồn gốc đã sinh ra chúng, phải xóa bỏ tính trạng yếu kém về tư duy lý luận, phát triển tư duy lý luận lên trình độ cao nếu muốn có được tầm tư duy chiến lược. Để đạt được điều đó, trước hết người cán bộ cần phải có được phương pháp biện chứng duy vật và bên cạnh đó phải vận dụng phương pháp đó vào thực tiễn công việc lãnh đạo của mình. Với bản chất khoa học, cách mạng và phê phán, phương pháp biện chứng duy vật, như C.Mác và Ph.Ănghen đã khẳng định: không chịu khuất phục trước một cái gì cả sẽ giúp chủ thể vượt qua mọi trở ngại trong công việc. Như vậy, nắm vững phương pháp biện chứng duy vật sẽ giúp người cán bộ lãnh đạo vừa ngăn ngừa, khắc phục những khuynh hướng tư duy sai lầm, vừa nâng cao năng lực tư duy, tạo khả năng giải quyết đúng đắn những vấn đề thực tiễn đặt ra.

4.3. TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC THÔNG TIN ĐỐI NGOẠI VÀ KHOA HỌC DỰ BÁO CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ LÃNH ĐẠO

Nâng cao trình độ tư duy chiến lược cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở nước ta hiện nay - 19

Văn kiện Đại hội XII yêu cầu phải: “nắm bắt, dự báo những diễn biến mới để kịp thời xác định, điều chỉnh một số chủ trương, nhiệm vụ, giải pháp cho phù hợp” [28, tr.64].

Mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế trên tất cả mọi lĩnh vực là xu thể hiện nay của tất cả các nước. Dự báo về tình hình vận động biến đổi của thế giới và từng quốc gia dân tộc là một khoa học. Các nước tiên tiến đã nghiên cứu và phát triển lĩnh vực này một cách nghiêm túc và đạt kết quả rất tốt. Thành tựu của những kết quả nghiên cứu đó là họ đã dự báo và chỉ ra được khuynh hướng vận động chung cũng như từng lĩnh vực cụ thể mà họ nghiên cứu. Có thể nói, trong lịch sử đã có nhiều dự báo thiên tài được đưa ra về sự vận động của thế giới mà


ngày nay đã được kiểm chứng trên thực tế. Ở đây chứng ta có thể thấy ở Mác, thông qua việc ông đã chỉ ra được những quy luật vận động của thế giới vật chất, chỉ ra được quy luật xã hội, quy luật kinh tế… Chúng ta cũng có thể thấy khả năng dự báo thiên tài, tầm nhìn chiến lược ở Chủ tịch Hồ Chí Minh mà Người đã tìm ra con đường cứu nước đúng đắn, về công tác xây dựng Đảng, về công tác ngoại giao, về kinh tế, quân sự để giờ chúng ta phải quay về tiếp tục nghiên cứu học tập theo những chỉ dẫn ấy. Dự báo thiên tài về cách mạng tháng Tám thành công năm 1945, về thắng lợi của kháng chiến chống Mỹ cứu nước, về thắng lợi của cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại miền Bắc của đế quốc Mỹ xâm lược.

Hiện nay nước ta đang trong giai đoạn chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện và sâu rộng, nên đòi hỏi Đảng, Nhà nước nỗ lực rất cao để tận dụng thời cơ, thích ứng với thay đổi, vượt qua những thách thức lớn trong quá trình hội nhập vào một thế giới đầy biến động. Điều này đòi hỏi phải rất coi trọng công tác thông tin đối ngoại, tăng cường năng lực dự báo cho các tổ chức, cơ quan tham mưu và cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhất là cấp chiến lược.

Xây dựng mạng lưới thông tin đối ngoại trong nước và quốc tế; phát huy vai trò các đại sứ quán, cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước ngoài trong việc cung cấp thông tin; phát huy vai trò của Bộ Ngoại giao, Ban Đối ngoại Trung ương trong việc tiếp nhận, xử lý, chắt lọc, cung cấp thông tin cho các cơ quan lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước, các cơ quan hoạch định chính sách, sử dụng có hiệu quả những thông tin qua nguồn internet…

Tăng cường thông tin đối ngoại để chúng ta tiếp cận được những thành tựu trí tuệ của thế giới trên nhiều lĩnh vực khác nhau, mở rộng tầm nhìn, tham khảo kinh nghiệm thành công và không thành công để trang bị thêm cho bản thân mình những cách nhìn mới. Tăng cường công tác thông tin đối ngoại không chỉ ở việc chúng ta chủ động cập nhật và có những chính sách mở rộng tạo điều kiện tiếp cận thông tin các kiến thức khoa học từ quốc tế mà còn thông qua việc khuyến khích các chủ thể cán bộ lãnh đạo, các nhà lý luận của nước ta đăng tải các bài viết trên các tạp chí nước ngoài, nhất là các tạp chí trong danh mục tạp


chí được xếp hạng thế giới. Điều này sẽ giúp chúng ta thu nhận được cả những ý kiến đóng góp, ý kiến phản biện, thông qua đó mà chúng ta có thêm những thông tin hữu ích.

Thêm vào đó cần chú trọng việc cử các nhà lãnh đạo, đội ngũ chuyên gia hoạch định chiến lược Việt Nam ra nước ngoài học tập, bồi dưỡng ngắn hạn và dài hạn, tham gia hội thảo quốc tế, trao đổi học thuật, tiếp cận thông tin, từ đó làm giàu cơ sở dữ liệu cho năng lực dự báo, phán đoán của người cán bộ lãnh đạo.

Ở nước ta hiện nay đã hình thành hệ thống các cơ quan nghiên cứu, tham mưu chiến lược phục vụ công tác lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước. Các cơ quan của Đảng bao gồm: Văn phòng Trung ương, Ban Tổ chức Trung ương, Ban Tuyên giáo Trung ương, Ban Dân vận Trung ương, Ban Đối ngoại Trung ương, Ban Nội chính Trung ương, Ban Kinh tế Trung ương, Hội đồng Lý luận Trung ương. Các cơ quan đã tham mưu về chủ trương, chính sách, định hướng chiến lược phục vụ sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư trong thời gian trước mắt và dài hạn.

Các bộ, ngành của Chính phủ đều có các học viện, Viện nghiên cứu chiến lược ở các Bộ như: Bộ Ngoại giao, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Bộ Kế hoạch - đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Bộ Tư pháp... Các cơ quan này tham mưu cho Chính phủ xây dựng, ban hành, tổ chức thực hiện các chính sách pháp luật, khoa học... ngày càng hiệu quả.

Tuy giữ vai trò quan trọng trong việc tham mưu, đề xuất các chủ trương, chính sách cho Đảng và Nhà nước nhưng những bộ phận này chưa thực sự phát huy hết vai trò của mình do còn tồn tại nhiều hạn chế như: Công tác tham mưu chưa kịp thời, dự báo còn chậm, chưa nhanh nhạy, chất lượng tham mưu chưa cao; tham mưu về những chính sách có khi không phù hợp dẫn tới hay phải thay đổi, có những nội dung đưa ra còn lạc hậu, chưa theo kịp tình hình; sự phối kết hợp chưa tốt, trình độ tư duy chiến lược của cán bộ lãnh đạo còn hạn chế, trình độ ngoại ngữ chưa đáp ứng yêu cầu, thông tin quốc tế còn nghèo và nắm bắt còn chậm.


Việc đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan nghiên cứu, tham mưu chiến lược là yêu cầu cấp thiết. Để nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan này đòi hỏi phải tiến hành đồng bộ nâng cao chất lượng bộ máy và chất lượng cán bộ, tuyển dụng cán bộ giỏi, thông thạo ngoại ngữ, những nhân tài, tăng cường học tập, đào tạo, bồi dưỡng về lý luận và chuyên môn, học tập ngoại ngữ, có chế độ, chính sách thích đáng; xây dựng đội ngũ cán bộ theo hướng trở thành những chuyên gia tham mưu sâu từng lĩnh vực, bộ máy tinh gọn nhưng chất lượng cao; tăng cường sự phối kết hợp giữa các cơ quan tham mưu, các viện nghiên cứu, các trường đại học để sớm phát hiện và bồi dưỡng những nhân tài trở thành những nhà lãnh đạo ưu tú cho tương lai; tăng cường công tác thông tin, tiếp cận khoa học và công nghệ hiện đại trên thế giới, tích cực nghiên cứu khoa học, nghiên cứu lý luận cho các cơ quan tham mưu chiến lược vì không nghiên cứu, tìm hiểu một cách sâu sắc thì không thể có ý kiến tham mưu xác đáng, có hiệu quả; rèn luyện cán bộ, nâng cao phẩm chất cách mạng, nâng cao trình độ tư duy chiến lược; tăng cường cơ sở nghiên cứu, đầu tư ngân sách, kinh phí cho các học viện, viện nghiên cứu chiến lược của các Bộ, Ban, Ngành Trung ương. Có được sự đổi mới đồng bộ như vậy mới góp phần có hiệu quả vào việc nâng cao trình độ tư duy chiến lược cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở nước ta hiện nay, đáp ứng nhu cầu của tình hình mới.

4.4. PHÁT HUY NHÂN TỐ CHỦ QUAN CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ LÃNH ĐẠO Người cán bộ lãnh đạo là những người được đào tạo, bồi dưỡng cả về chuyên môn nghiệp vụ và lập trường tư tưởng. Đào tạo, bồi dưỡng để có được những người cán bộ lãnh đạo có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức trong sáng, có trình độ chuyên môn vững vàng; rèn luyện để trở thành những con người có trách nhiệm với công việc được giao phó, có khả năng xây dựng khối đoàn kết để phát huy sức mạnh tập thể, tạo động lực cho sự phát triển. Để đạt được điều đó, đội ngũ này phải được tôi luyện, trưởng thành qua thử thách, có ý chí vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, là những người có bản lĩnh chính trị vững vàng, có tư duy đổi mới, đã nhanh chóng thích nghi với cơ chế thị trường, góp


phần vào việc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế của đất nước.

Quy định khung tiêu chuẩn chức danh cán bộ lãnh đạo, quản lý do Bộ Chính trị ban hành ngày 04/8/2017 đã chỉ rõ những yêu cầu về chính trị, tư tưởng, về đạo đức, lối sống, ý thức tổ chức kỷ luật, về trình độ, về năng lực và uy tín, về sức khỏe, độ tuổi và kinh nghiệm. Riêng về năng lực và uy tín, trong Quy định viết: “Có tư duy đổi mới, có tầm nhìn, phương pháp làm việc khoa học; có năng lực tổng hợp, phân tích và dự báo. Có khả năng phát hiện những mâu thuẫn, thách thức, thời cơ, thuận lợi, vấn đề mới, khó khăn và những hạn chế, bất cập trong thực tiễn; mạnh dạn đề xuất những nhiệm vụ, giải pháp phù hợp, khả thi, hiệu quả để phát huy, thúc đẩy hoặc tháo gỡ. Có năng lực thực tiễn, nắm bắt và hiểu biết cơ bản tình hình thực tế để cụ thể hóa và tổ chức thực hiện có hiệu quả các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ở lĩnh vực, địa bàn công tác được phân công…”. Đó cũng chính là những yêu cầu liên quan đến việc nâng cao trình độ tư duy chiến lược cho cán bộ lãnh đạo nước ta.

Tuy nhiên, đứng trước những thách thức của kinh tế thị trường, một bộ phận không nhỏ cán bộ lãnh đạo các cấp đã bộc lộ những hạn chế, yếu kém cả về năng lực chuyên môn và ý thức chính trị, thể hiện một tầm nhìn hạn hẹp với “tư duy nhiệm kỳ”. Đánh giá về đội ngũ cán bộ lãnh đạo, Báo cáo của Bộ Chính trị tại Hội nghị Trung ương 9 khóa X, tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 khóa VIII về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đã thẳng thắn chỉ ra: “trình độ, năng lực, kiến thức về kinh tế thị trường, luật pháp, ngoại ngữ, khả năng quản lý nhà nước, quản lý xã hội của không ít cán bộ vẫn còn bất cập; khả năng dự báo và định hướng sự phát triển vẫn còn yếu” [14, tr.202-203]. Đặc biệt, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI tiếp tục nhấn mạnh: “Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau


về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc”. Tại Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII thẳng thắn vạch rõ 27 biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị; về đạo đức, lối sống; về "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ. Như vậy, có thể thấy chất lượng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý còn nhiều hạn chế, yếu kém, điều này cản trở sự phát triển của tư duy chiến lược. Để xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp có phẩm chất, năng lực thực sự ngang tầm, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong thời kỳ hội nhập quốc tế hiện nay đã có nhiều giải pháp được xây dựng đối với đội ngũ này. Tuy nhiên, để thực hiện thành công các giải pháp đó, một yếu tố không thể thiếu đó là phát huy nhân tố chủ quan của chính bản thân người cán bộ lãnh đạo, là những thế mạnh, nguồn lực trong bản thân chủ thể.

Để phát huy nhân tố chủ quan trong nâng cao trình độ tư duy chiến lược đòi hỏi người ở bản thân người cán bộ lãnh đạo phải có đạo đức cách mạng. Đạo đức cách mạng là phẩm chất quan trọng của người cách mạng, thể hiện qua tình cảm, niềm tin, ý chí, nhiệt tình cách mạng là những nhân tố bên trong thôi thúc cán bộ không ngừng học tập, rèn luyện về mọi mặt, trong đó có việc học tập, rèn luyện, bồi dưỡng tư duy chiến lược. Chỉ có những cán bộ có tâm huyết vì nhân dân, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm thì trong các quyết định của mình mới thể hiện tầm nhìn xa, trông rộng, đó là cơ sở để có tư duy chiến lược.

Người cán bộ lãnh đạo phải tự tu dưỡng, tự rèn luyện. Đây là con đường quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp trong việc hình thành và phát triển, hoàn thiện nhân cách cán bộ, đảng viên. Hồ Chí Minh chỉ ra con đường người cán bộ, đảng viên tự vươn lên hoàn thiện mình, đó là phải học tập, rèn luyện bền bỉ suốt đời. Trên con đường rèn luyện bản thân, mỗi cán bộ, đảng viên phải nêu cao tinh thần đấu tranh tự phê bình và phê bình, chỉ có không ngừng đấu tranh, tự phê bình và phê bình mới nhận rõ đúng sai, phát huy cái đúng, khắc phục cái sai mới có thể làm cho mình, cho Đảng, cho cách mạng tiến bộ. Phát huy nhân tố chủ quan, người cán bộ lãnh đạo phải thường xuyên trau dồi phẩm chất cách mạng, kiên

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 08/03/2023