Nâng cao trình độ tư duy chiến lược cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở nước ta hiện nay - 15


Phép biện chứng duy vật là phương tiện chủ yếu để khắc phục, ngăn ngừa khuynh hướng tư duy dẫn đến nhận thức sai lầm các quy luật khách quan chi phối sự biến đổi của đời sống xã hội. Những khuynh hướng này biểu hiện ra bên ngoài thông qua hoạt động thực tiễn của con người làm cản trở, thậm chí hạn chế sự phát triển. Những khuynh hướng này được coi là những căn bệnh - ở đây nhắc tới bệnh chủ quan duy ý chí, bệnh kinh nghiệm, bệnh giáo điều. Tất cả những căn bệnh trên, tồn tại ở người cán bộ lãnh đạo thì càng trở nên nghiêm trọng, cản trở sự phát triển của tư duy, sự phát triển của thực tiễn. Việc ngăn ngừa, khắc phục những căn bệnh này chính là quá trình xóa bỏ những nguồn gốc đã sinh ra chúng. Với bản chất khoa học và cách mạng, phương pháp biện chứng duy vật, như C.Mác và Ph.Ănghen đã khẳng định: không chịu khuất phục trước một cái gì cả sẽ giúp chủ thể vượt qua mọi trở ngại trong công việc. Như vậy, nắm vững phương pháp biện chứng duy vật sẽ giúp người cán bộ lãnh đạo vừa ngăn ngừa, khắc phục những khuynh hướng tư duy sai lầm, vừa nâng cao năng lực tư duy, tạo khả năng giải quyết đúng đắn những vấn đề thực tiễn đặt ra.

Mặc dù đóng vai trò quan trọng, nhưng phương pháp biện chứng duy vật chưa được đội ngũ cán bộ lãnh đạo nắm vững và thực hiện nhuần nhuyễn. Bên cạnh những thế mạnh về kinh nghiệm thực tiễn và năng lực tư duy, những yếu kém về tư duy lý luận, sự lạc hậu của tư duy so với sự phát triển của thực tiễn, đặc biệt là sự yếu kém về tư duy biện chứng, được biểu hiện trên các căn bệnh trong phương pháp tư duy như lối tư duy siêu hình, kinh nghiệm chủ nghĩa, giáo điều, bảo thủ, chủ quan, duy ý chí... đã dẫn tới những hạn chế trong kết quả hoạt động thực tiễn thời gian qua. Những yếu kém về tư duy biện chứng, về phương pháp tư duy của đội ngũ cán bộ lãnh đạo đang là một vấn đề hết sức cấp bách cần phải giải quyết khi nước ta đang phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ trương hòa nhập về mọi mặt trong tiến trình toàn cầu hóa.

Những hạn chế về phương pháp tư duy biện chứng của không ít cán bộ lãnh đạo ở nước ta được biểu hiện trong sự suy nghĩ giản đơn, ấu trĩ một chiều, thiếu tư duy phản biện. Tư duy mới dừng lại ở trình độ kinh nghiệm,


cảm tính, còn ít yếu tố duy lý, nặng về tổng hợp giản đơn, khái quát vội vàng hoặc suy diễn trừu tượng, coi nhẹ phân tích và chứng minh. Tư duy kinh nghiệm ấy không phải do khái quát khoa học, do tổng kết thực tiễn có được, mà chủ yếu bằng con đường trực quan, cảm tính, bằng tích lũy kinh nghiệm cá nhân trong giải quyết những vấn đề thực tiễn cụ thể. Đó là những kinh nghiệm vụn vặt, rời rạc, đời thường, tiền khoa học. Vì thế, các tri thức có được chủ yếu mới dừng lại ở bên ngoài những hiện tượng, chưa đi sâu vào các mối liên hệ bản chất bên trong. Hơn thế, tư duy kinh nghiệm còn thể hiện ở chỗ nó bao giờ cũng chỉ phản ánh những quan hệ riêng biệt mà những quan hệ riêng biệt này không liên hệ gì với nhau. Lối tư duy không dựa trên một nền tảng lý luận vững chắc nên thường dao động từ cực này sang cực kia, vừa cực đoan vừa dao động, nửa vời dẫn đến trong chỉ đạo thực tiễn người lãnh đạo mất đi sự tự tin, tính quyết đoán. Với phương pháp tư duy biện chứng còn hạn chế mà không ít cán bộ lãnh đạo của chúng ta đã không làm chủ được lĩnh vực mà mình lãnh đạo và quản lý, chưa đủ bản lĩnh để "dĩ bất biến ứng vạn biến" dẫn đến sai lầm đáng tiếc. Chủ thể thiếu phương pháp tư duy biện chứng dẫn tới khả năng xử lý thông tin, khả năng phân tích, tổng hợp sẽ yếu, do đó khả năng phán đoán, dự báo sẽ càng yếu kém. Khả năng dự báo đúng là hết sức cần thiết với người cán bộ lãnh đạo bởi vì không dự báo đúng với sự vận động của các hiện tượng thì sẽ không thể xây dựng được những kế hoạch phát triển phù hợp với tiến trình phát triển.

Yêu cầu về học tập phong cách tư duy Hồ Chí Minh

Để nâng cao trình độ tư duy chiến lược, đội ngũ cán bộ lãnh đạo cần phải không ngừng bồi dưỡng, học tập phong cách tư duy Hồ Chí Minh. Ở bản chất tư duy Hồ Chí Minh, trí tuệ nhân loại hòa quyện các giá trị của văn hóa phương Đông và phương Tây, với bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam. Trên nền tảng đó, Người còn rèn cho mình để có được phẩm chất tư duy độc lập, sáng tạo, mềm dẻo, linh hoạt, nhạy bén với cái mới, uyên bác cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, nhuần nhuyễn giữa tính cách mạng và khoa học, thống nhất giữa suy nghĩ và


hành động. Có nhiều nhà khoa học thế giới nghiên cứu về Hồ Chí Minh, họ cho rằng, ở phong cách tư duy Hồ Chí Minh là sự thống nhất đạt đến đỉnh cao giữa trình độ hiểu biết sâu rộng về lý luận và thực tiễn cách mạng với kỹ năng thành thạo về tổ chức thực hiện một cách tuyệt vời. Những kiến thức, những kỹ năng ưu trội ở Hồ Chí Minh được thể hiện ở sự thuần thục trong việc sử dụng ngôn ngữ vừa uyên bác, tinh túy, vừa trong sáng, giản dị, phổ thông làm cho tư tưởng của Người trở nên dễ hiểu, dễ xâm nhập vào quần chúng. Tất cả những điều đó làm nên tư duy Hồ Chí Minh đúng đắn, khoa học mà đầy sáng tạo và có giá trị thực tiễn rất cao.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 175 trang tài liệu này.

Chủ tịch Hồ Chí Minh là người rất nhạy cảm với cái mới và ủng hộ cái mới. Quá trình đó đòi hỏi phải kế thừa có chọn lọc những yếu tố tích cực, loại bỏ những yếu tố lạc hậu, lỗi thời, phê phán bệnh bảo thủ. Hồ Chí Minh là nhà chiến lược thiên tài, có tư duy chiến lược, tầm nhìn xa, nhạy bén. Người đã có những dự báo chính xác đến kinh ngạc. Người đã từng dự báo “45 cách mạng thành công”’ “20 năm nữa mới giải phóng được miền Nam”, “thế nào đế quốc Mỹ cũng đem máy bay B52 đánh phá miền Bắc”… và thực tiễn đã diễn ra đúng như dự báo của Người. Người cho rằng bảo thủ tức là cố tình duy trì, giữ lại cái cũ, lạc hậu, không chịu nghĩ ra cái mới, không có sáng kiến, nghĩ đến cái mới là ngại khó khăn, gian khổ và đó chính là lực cản của sự tiến bộ.

Thế giới ngày nay không ngừng vận động và biến đổi một cách nhanh chóng đòi hỏi người cán bộ lãnh đạo phải nắm bắt một cách nhanh nhạy, kịp thời đưa ra những quyết sách đúng thì nguyên tắc “dĩ bất biến, ứng vạn biến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng cần được quán triệt sâu sắc. Nguyên tắc này không chỉ có ý nghĩa trong công tác đối ngoại, mà trong công tác lãnh đạo nói chung trên tất cả các mặt, các lĩnh vực. Thực hiện nguyên tắc này chính là sự kiên định với mục tiêu, lý tưởng cách mạng mà Bác Hồ, toàn Đảng, toàn dân ta đã lựa chọn và phấn đấu trong suốt quá trình dựng nước và giữ nước đã qua, đồng thời chủ động ứng phó, thậm chí đối mặt với mọi sự thay đổi của toàn cầu, phát huy được nội lực, tranh thủ ngoại lực vì sự phát triển bền vững của đất nước.

Nâng cao trình độ tư duy chiến lược cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở nước ta hiện nay - 15


Sau Đại hội XII của Đảng, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 05- CT/TW, ngày 15-5-2016, về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, nội dung học tập được triển khai sâu rộng từ đội ngũ cán bộ lãnh đạo tới quần chúng nhân dân. Đây là chủ trương lớn của Đảng nhằm tiếp tục phát huy những kết quả đạt được trong quá trình thực hiện Chỉ thị số 23- CT/TW của Ban Bí thư khóa IX, Chỉ thị số 06-CT/TW của Bộ Chính trị khóa X và Chỉ thị số 03-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XI, góp phần tạo chuyển biến mạnh mẽ và sâu rộng hơn nữa ý thức tự giác, rèn luyện, nâng cao đạo đức cách mạng, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XII của Đảng. Bên cạnh những kết quả đạt được, việc thực hiện Chỉ thị 05 của Bộ Chính trị còn chưa đạt những kết quả như mong muốn, còn tồn tại những hạn chế, khuyết điểm cần khắc phục. Vẫn còn những cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên chưa nhận thức đầy đủ và sâu sắc về sự cần thiết, ý nghĩa, tầm quan trọng của việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; còn những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; tệ tham nhũng, lãng phí, quan liêu chưa được đẩy lùi.

Việc “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” ở các cơ quan nhà nước chưa được quan tâm đúng mức. Nhiều bộ, ngành chưa triển khai thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW theo yêu cầu của Bộ Chính trị; trong tổ chức quán triệt Chỉ thị 05, học tập những nội dung cơ bản của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, về hình thức thì phong phú, nhưng về nội dung chưa thật đầy đủ, sâu sắc, thiếu thống nhất, có nơi làm còn chậm theo kế hoạch của trung ương; số lượng nội dung công việc cụ thể, đăng ký học tập, làm theo Bác chưa được nhiều; vấn đề gương mẫu của cán bộ, đảng viên, nhất là việc nêu gương của cán bộ chủ chốt, người đứng đầu ở một số địa phương, đơn vị chưa được nhiều, kết quả chưa rõ.

Như vậy, có thể thấy việc học tập tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh nói chung, phong cách tư duy Hồ Chí Minh nói riêng chưa thực sự đạt kết quả tốt trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở nước ta. Nguyên nhân của những tồn tại


yếu kém, của những hạn chế đó là do từ phía tổ chức thực hiện học tập chưa đảm bảo và từ phía chính bản thân nhân tố chủ quan một bộ phận cán bộ lãnh đạo nước ta chưa thực sự nghiêm túc trong quá trình học tập tấm gương Hồ Chí Minh.

Yêu cầu về tầm nhìn chiến lược, năng lực dự báo, định hướng trong hoạt động lãnh đạo

Hoạt động lãnh đạo là một dạng hoạt động đặc biệt. Người cán bộ lãnh đạo trong đa số trường hợp không trực tiếp tạo ra sản phẩm mang giá trị sử dụng cụ thể của đời sống, nhưng họ lại là người đưa ra những dự báo, định hướng, vạch ra phương hướng, kế hoạch, tổ chức, quản lý và chỉ đạo các hoạt động sáng tạo ra sản phẩm nhằm thỏa mãn một cách trực tiếp hay gián tiếp các nhu cầu vật chất và tinh thần của đời sống xã hội, nâng cao đời sống xã hội, thúc đẩy xã hội phát triển. Đối với người cán bộ lãnh đạo luôn đòi hỏi nhìn nhận mọi vấn đề ở tầm chiến lược.

Thế giới ngày nay đang có những bước biến chuyển to lớn trên cơ sở những thành tựu và sự ảnh hưởng của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nền kinh tế đang chuyển dần sang kinh tế tri thức, kinh tế số, xã hội vận động, phát triển với tốc độ nhanh, tương lai không còn là hình ảnh tù mù, rủi may, con người ngày nay hoàn toàn có thể kiểm soát được hướng đến và tốc độ đến của tương lai. Tuy nhiên, xã hội không phát triển theo ý muốn chủ quan của những người điều hành bảo thủ, lạc hậu mà tương lai thuộc về những người năng động, sáng tạo, có tư duy đổi mới, biết nắm bắt thời cuộc. Nói cách khác, con người hiện nay, đặc biệt là những người cán bộ lãnh đạo cần phải có được tầm nhìn chiến lược. Có tầm nhìn tức là xây dựng được hình ảnh, tiêu chuẩn, những kế hoạch trong tương lai đồng thời xây dựng được hệ thống phương pháp đạt được những điều đó. Tầm nhìn chiến lược cần thiết cho việc dự báo xu hướng vận động biến đổi, tốc độ phát triển của đối tượng hướng tới nghiên cứu và tác động trên địa bàn và trong mối tương quan với những lĩnh vực khác, với quy mô rộng lớn hơn. Người cán bộ lãnh đạo có tầm nhìn chiến lược phải hoạch định được các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội cho địa phương, đơn vị, địa bàn mình phụ trách cho 5 năm, 10 năm, 20 năm, … và hơn thế phải định hướng, dẫn dắt được quần chúng đạt được những mục tiêu đặt ra.


Tầm nhìn chiến lược giúp chủ thể nhận thức nhìn ra được trước vấn đề, ra được các quyết định đúng và trúng cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Và để xây dựng được cho mình khả năng có tầm nhìn xa trong tương lại như vậy, người cán bộ lãnh đạo cần không ngừng học hỏi. Trong hành trang tri thức của mỗi người rất nhiều điều còn thiếu, nhưng nếu thấy cái gì học cái ấy thì chúng ta chỉ thu được một mớ kiến thức hỗn tạp, không có tác dụng với chính người học và cũng không đủ thời gian để học và hiểu hết tất cả. Bởi vậy, đối với viêc học, người học phải học cặn kẽ, thấu đáo, cụ thể và sâu sắc đến tận bản chất vấn đề. Tầm nhìn chiến lược trong quá trình lãnh đạo thể hiện ở việc người cán bộ lãnh đạo luôn phải dự báo được các tình huống có thể xảy ra để đưa ra được các phương án dự phòng một cách tối ưu nhất. Để làm được điều đó, cần bồi dưỡng nâng cao khả năng khái quát, xử lý thông tin thông qua việc tổng kết, rút kinh nghiệm thực tiễn.

Tầm nhìn chiến lược cần có tính sáng tạo, tính tiên phong và đóng vai trò là kim chỉ nam cho việc xây dựng các kế hoạch đem tới sự thắng lợi. Tư duy chiến lược cũng giống như việc nhìn mọi thứ từ trên cao, sức nhìn bao quát, tổng thể. Nói một cách khác là người cán bộ lãnh đạo cần phải có sự thông minh, phải có khả năng nhìn xa trông rộng, khả năng “tiên đoán” và phân tích để hoạch định bước đi trong tương lai. Sự thông minh ở một cán bộ lãnh đạo quản lý cần được hiểu, đó là khả năng phản ứng nhanh nhạy, khôn ngoan trước các diễn biến của thực tiễn, sự thông minh này luôn gắn liền với sự nhạy bén trong việc nắm bắt và khai thác thời cơ, gắn liền với khả năng và sự tưởng tượng phong phú sáng tạo, nhằm đương đầu với những đòi hỏi cấp bách phải xử lý trong quá trình lãnh đạo, quản lý. Với tầm nhìn bao quát đầy đủ, toàn diện, người cán bộ lãnh đạo sẽ thấy được cái chính, cái chủ yếu, đồng thời thấy được cả cái chi tiết, cục bộ. Chính vì vậy người cán bộ lãnh đạo cần nhận ra những cái to lớn, cái quan trọng ở một hiện tượng nhỏ, nhằm định hướng một cách chính xác những tình huống sẽ xảy ra và cả những tình huống không có trong dự kiến sẽ xảy ra.

Năng lực dự báo, định hướng là năng lực có thể “tiên đoán” được những sự việc có thể xảy ra trong tương lai trên cơ sở phân tích khoa học về các dữ liệu


có trong thực tiễn mà chủ thể đã thu thập được. Có thể nói, đối với người cán bộ lãnh đạo hiện nay, khả năng dự báo, phán đoán, định hướng mà thực chất đó chính là khả năng tầm nhìn về tương lai còn chưa cao. Việc nắm vững các quy luật khách quan, thông qua đó mà nhìn thấu tỏ được xu hướng vận động biến đổi của sự vật, hiện tượng được thể hiện ra còn yếu nên một số chương trình, kế hoạch, chủ trương, chính sách đưa ra còn bất cập, chưa đáp ứng được sự vận động, biến đổi của thực tiễn.

Yêu cầu về nâng cao năng lực tổng kết thực tiễn

Để nâng cao trình độ tư duy chiến lược cho cán bộ lãnh đạo, thông qua hoạt động thực tiễn lãnh đạo quản lý và tổng kết thực tiễn là yêu cầu vô cùng quan trọng. Việc đi vào hoạt động thực tiễn và tổng kết hoạt động thực tiễn sẽ góp phần hoàn thiện phương pháp tư duy biện chứng duy vật, mài sắc tư duy làm cho nó trở nên năng động, mềm dẻo, phản ánh kịp thời và sáng tạo sự biến đổi của thực tiễn, từ đó đề ra chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đúng đắn. Thực chất việc tham gia vào thực tiễn lãnh đạo, quản lý và tổng kết thực tiễn là việc thực hiện nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn mà phương pháp biện chứng duy vật đã chỉ ra.

Hoạt động của người cán bộ lãnh đạo dù ở cấp nào cũng phải thực hiện bao gồm hàng loạt các khâu từ ra quyết định; tổ chức thực hiện quyết định; kiểm tra, giám sát việc thực hiện quyết định; tổng kết rút kinh nghiệm việc tổ chức thực hiện quyết định; vận dụng các bài học kinh nghiệm rút ra vào việc chuẩn bị ra các quyết định mới. Để ra được các quy định, kế hoạch, quyết sách quyết định chính xác, người cán bộ lãnh đạo phải biết cách thu thập và xử lý thông tin từ hoạt động thực tiễn và công tác tổng kết thực tiễn. Thông qua quá trình này, người cán bộ lãnh đạo trực tiếp phải tư duy, vận dụng năng lực trí tuệ, các phương pháp tư duy vào xử lý các thông tin liên quan. Trong quá trình lãnh đạo, người cán bộ lãnh đạo phải dự báo được các tình huống có thể xảy ra, đưa ra được các phương án dự phòng một cách tối ưu nhất. Thực tiễn luôn vận động, biến đổi, phát triển, do đó cũng luôn nảy sinh những vấn đề mới không có sẵn, đòi hỏi trước hết là người cán bộ lãnh đạo phải đi sâu


nhận thức được những vấn đề thực tiễn nảy sinh, trên cơ sở đó nắm bắt được đúng xu hướng vận động, biến đổi, phát triển của thực tiễn.

Bên cạnh hoạt động thực tiễn thì việc tổng kết thực tiễn trực tiếp góp phần hoàn thiện phương pháp tư duy biện chứng duy vật, nâng cao năng lực tư duy chiến lược. Tổng kết thực tiễn góp phần mài sắc tư duy lý luận, làm cho nó mềm dẻo, năng động, phản ánh kịp thời và sáng tạo sự vận động, biến đổi của thực tiễn. Tổng kết thực tiễn không phải là sự chép lại, chụp lại toàn bộ những sự việc xảy ra, cũng không phải là sự liệt kê những ưu điểm và hạn chế. Tổng kết thực tiễn phải là sự phân tích, đánh giá về những công việc và kết quả của những công việc đã thực hiện qua đó khái quát lên những vấn đề mang tính cốt lõi nhằm hoàn thiện những chủ trương, đường lối, giải pháp cho những vấn đề của thực tiễn. Tổng kết thực tiễn là hoạt động trí tuệ, có lý luận, nó khác xa với tổng kết thực tiễn theo lối kinh nghiệm chủ nghĩa. Tổng kết thực tiễn có lý luận đòi hỏi người các bộ lãnh đạo trên cơ sở những điều quan sát thấy phải tìm ra được cái bản chất, cái logic vận động, biến đổi của vấn đề. Việc tổng kết thực tiễn phải trên cơ sở dám nhìn thẳng vào sự thật, không né tránh sự thật, tìm ra nguyên nhân của vấn đề. Đây chính là nguyên tắc khách quan của phép biện chứng duy vật. Bởi vậy, trong quá trình tổng kết thực tiễn đòi hỏi người cán bộ lãnh đạo phải biết thu thập, xử lý thông tin, lựa chọn những vấn đề để tổng kết, vận dụng tư duy khoa học, phương pháp biện chứng duy vật vào quá trình tổng kết. Như vậy, với những yêu cầu khách quan của quá trình tổng kết thực tiễn, người cán bộ lãnh đạo không ngừng được rèn luyện, trau dồi tư duy chiến lược của mình.

Gắn lý luận với thực tiễn, nâng cao năng lực tổng kết thực tiễn là một yêu cầu cấp bách đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo hiện nay. Đó là một trong những yếu tố để phát triển nâng tầm tư duy chiến lược. Tổng kết lãnh đạo, quản lý cũng góp phần nâng cao, rèn luyện năng lực tư duy chiến lược cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, nhất là việc tổng kết hoạt động lãnh đạo kém hiệu quả. Khi tìm ra nguyên nhân của việc thiếu nhìn xa trông rộng trong xây dựng các chương trình phát triển kinh tế - xã hội thì người cán bộ lãnh đạo sẽ rút ra được các bài học kinh nghiệm bổ ích. Chính những bài học kinh nghiệm này sẽ giúp người cán bộ tự học tập nâng cao năng lực tư duy chiến lược của mình có hiệu quả nhất.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 08/03/2023