Các Yếu Tố Ảnh Hưởng Tới Năng Lực Cạnh Tranh Của Doanh Nghiệp Kinh Doanh Dịch Vụ Viễn Thông


năng lực cạnh tranh, chưa phản ánh một cách bao quát năng lực kinh doanh của một công ty.

• Năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp là khả năng chống chịu trước sự tấn công của các công ty khác. Quan niệm này mang tính định tính, không thể lượng hoá các yếu tố làm thước đo năng lực cạnh tranh của công ty.

• Năng lực cạnh tranh đồng nghĩa với năng suất lao động. Theo Michael Porter, năng suất lao động là thước đo duy nhất về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Hạn chế của quan niệm này là chưa gắn với việc thực hiện các mục tiêu và nhiệm vụ của doanh nghiệp.

• Năng lực cạnh tranh đồng nghĩa với khả năng duy trì và nâng cao lợi thế cạnh tranh.

Quan điểm này được khá nhiều tác giả của Việt Nam sử dụng. Trong cuốn sách “Nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay”, tác giả Nguyễn Vĩnh Thanh (2003) đưa ra khái niệm: “Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng duy trì và nâng cao lợi thế cạnh tranh trong việc tiêu thụ sản phẩm, mở rộng mạng lưới tiêu thụ, thu hút và sử dụng có hiệu quả các yếu tố sản xuất nhằm đạt lợi ích kinh tế cao và bền vững [10].

1.2.2 Các yếu tố ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ viễn thông

1.2.2.1 Yếu tố bên trong doanh nghiệp

- Năng lực về tài chính

Vốn là một nguồn lực liên quan trực tiếp tới năng lực cạnh tranh của công ty. Một công ty có năng lực cạnh tranh cao trong trường hợp vốn dồi dào, luôn đảm bảo huy động vốn trong những điều kiện cần thiết, có nguồn vốn huy động hợp lý, có kế hoách sử dụng vốn hiệu quả để phát triển lợi nhuận, phải hạch toán các chi phí rõ ràng để xác định hiệu quả chính xác. Nếu

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 137 trang tài liệu này.


không có nguồn vốn dồi dào thì hạn chế rất lớn tới kết quả hoạt động kinh doanh cũng như hạn chế trong việc sử dụng công nghệ hiện đại, đào tạo nâng cao trình độ cán bộ và nhân viên, triển khai thử nghiệm và ứng dụng nghiên cứu, hạn chế hiện đại hóa hệ thống tổ chức quản lý.

Nâng cao năng lực cạnh tranh của tập đoàn Bưu chính viễn thông Việt Nam trên thị trường viễn thông tỉnh Nghệ An - 4

Trên thực tế không có công ty nào có thể tự đủ vốn để triển khai tất cả các mặt trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Vì vậy, điều quan trọng nhất là công ty có kế hoạch huy động vốn phù hợp và phải có chiến lược đa dạng hóa nguồn cung vốn, để từ đó đầu tư vào cơ sở hạ tầng. Cơ sở hạ tầng hiện đại sẽ làm tăng năng suất lao động, hiệu quả sản xuất cao hơn, hao phí nhỏ… dẫn tới số lượng sản phẩm tăng, chi phí cận biên giảm và như vậy giá thành sản phẩm hạ nhờ đó nâng sức cạnh tranh của sản phẩm so với đối thủ.

Năng lực tài chính là yếu tố rất quan trọng để xem xét tiềm lực của doanh nghiệp mạnh, yếu như thế nào.

- Nguồn nhân lực

Nhân lực là một nguồn lực rất quan trọng vì nó đảm bảo nguồn sáng tạo cho mọi tổ chức. Trình độ nguồn nhân lực thể hiện ở trình độ quản lý của các cấp lãnh đọa, trình độ chuyên môn của cán bộ công nhân viên, trình độ tư tưởng văn hóa của mọi thành viên trong công ty. Trình độ nguồn nhân lực cao sẽ tạo ra sản phẩm có hàm lượng chất xám cao, thể hiện trong kết cấu kỹ thuật của sản phẩm, mẫu mã, chất lượng…và từ đó uy tín, danh tiếng của sản phẩm sẽ tăng, công ty sẽ tạo được sự cạnh tranh trên thương trường và trong lòng công chúng.

Ngoài ra công tác tổ chức lao động hợp lý giữa các bộ phận sản xuất, giữa các cá nhân trong tập đoàn, sử dụng người đúng việc sao cho phát huy tốt nhất năng lực sở trường của người lao động là một yêu cầu không thể thiếu trong công tác tổ chức lao động của tập đoàn nhằm đưa các hoạt động kinh


doanh của tập đoàn có hiệu quả cao. Như vậy công tác tổ chức lao động của bất kỳ một tập đoàn hay doanh nghiệp nào cũng cần tuân thủ các nguyên tắc chung và sử dụng đúng người đúng việc, quyền lợi và trách nhiệm rõ ràng sao cho có thể thực hiện nhanh nhất, tốt nhất các nhiệm vụ được giao, đồng thời phải phát huy được tính độc lập, sáng tạo của người lao động có như vậy sẽ góp phần vào việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của tập đoàn hay doanh nghiệp đó.

- Trình độ công nghệ

Công nghệ sản xuât là yếu tố quan trọng ảnh hưởng rất lớn dến năng lực cạnh tranh của công ty viễn thông. Công nghệ phù hợp cho phép rút ngắn thời gian sản xuất, giảm mức tiêu hao năng lượng, tăng năng suất, hạ giá thành sản phẩm, nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo ra lợi thế cạnh tranh đối với sản phẩm. Công nghệ còn tác động đến tổ chức sản xuất, nâng cao trình độ cơ khí hóa, tự động hóa của công ty. Đây là yếu tố đại diện cho sự sáng tạo, tiên tiến, cho sản phẩm mới cũng như loại bỏ những sản phẩm cũ, lạc hậu; tạo cho tập đoàn chỗ đứng vững chắc trên thị trường. Một sản phẩm mới ra đời không thể thiếu được sự đóng góp của quá trình nghiên cứu và phát triển (R&D) sản phẩm. Công nghệ hiện đại sẽ giúp tập đoàn tạo ra các sản phẩm có chất lượng cao, mẫu mã phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng, giá thành hạ do năng suất lao động tăng, hao phí nhỏ…

- Nghiên cứu phát triển

Đầu tư cho nghiên cứu phát triển là một công thức phát triển bền vững của bất kỳ một tập đoàn hay một DN trên thế giới, đặc biệt nếu họ chọn lĩnh vực công nghệ cao. Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật phát triển này. Tại nhiều nước trên thế giới, các tập đoàn luôn coi bộ phần nghiên cứu và phát triển là không thể thiếu đối với tập đoàn. Đầu tư cho KHCN là đầu tư cho chính sự phát triển bền vững để tăng tính cạnh tranh gay gắt.


- Năng lực cung cấp dịch vụ

Trong bối cảnh hội nhập hiện nay hoạt động Marketing trở nên vô cùng quan trọng đối với các công ty. Marketing tốt là thoả mãn các nhu cầu và mong muốn của khách hàng, đảm bảo được cung cấp sản phẩm dịch vụ ổn định với chất lượng theo yêu cầu, giá cả phù hợp giúp công ty dành thắng lợi trong cạnh tranh và đạt được lợi nhuận cao trong dài hạn. Marketing giúp cho doanh nghiệp lựa chọn được khách hàng, xác định được đối thủ cạnh tranh của mình là ai, khuyếch trương được hình ảnh uy tín của doanh nghiệp mình trên thị trường. Hoạt động marketing của doanh nghiệp càng có chất lượng và ở phạm vi rộng bao nhiêu doanh nghiệp càng có thể tạo ra các lợi thế chiến thắng đối thủ cạnh tranh bấy nhiêu

- Thương hiệu và uy tín

Thương hiệu và uy tín là sự tổng hợp các thuộc tính như chất lượng dịch vụ, lợi ích dịch vụ và các dịch vụ sau bán hàng. Thương hiệu không những là dấu hiệu để nhận biết và phân biệt dịch vụ của công ty này với dịch vụ công ty khác mà con là tài sản rất giá trị của công ty, là vũ khí quan trọng trong cạnh tranh, là uy tín và thể hiện niềm tin của người tiêu dùng đối với dịch vụ.

Trong nền kinh tế thị trường luôn diễn ra sự cạnh tranh khốc liệt, muốn đứng vững trên thị trường buộc các công ty phải tạo dựng cho các dịch vụ, sản phẩm của mình một thương hiệu, có tên tuổi trong lòng khách hàng.

1.2.2.2 Các yếu tố bên ngoài

- Môi trường vĩ mô

Môi trường vĩ mô là môi trường rộng lớn bên ngoài doanh nghiệp, bao gồm nhiều yếu tố trực tiếp hoặc gián tiếp ảnh hưởng và tác động đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Thường thì các doanh nghiệp khó có thể kiểm soát được các yếu tố này nhưng có thể theo dõi, quan sát nhằm nhận diện các


dấu hiệu thay đổi, dự báo những xu hướng xảy ra trong tương lai. Qua đó, đánh giá những tác động của nó đến hoạt động của doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp chủ động ứng phó, đưa ra các chính sách kinh doanh thích hợp; biến các khó khăn, thuận lợi do chúng gây ra thành các cơ hội kinh doanh. Các yếu tố quan trọng trong môi trường vĩ mô ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp bao gồm: yếu tố kinh tế, yếu tố chính trị và pháp luật, yếu tố văn hóa và xã hội, yếu tố tự nhiên, yếu tố khoa học và công nghệ.

Thứ nhất, yếu tố kinh tế: Bao gồm các yếu tố như tốc độ tăng trưởng và sự ổn định của nền kinh tế, các chính sách đầu tư, phát triển kinh tế; chính sách tiền tệ, giá cả, lạm phát, tỷ giá hối đoái…Các yếu tố này đều có ảnh hưởng đến hoạt động SXKD của doanh nghiệp. Nó có thể tạo ra cơ hội và cả những thách thức đối với doanh nghiệp. Do đó, các doanh nghiệp cần phải theo dõi, phân tích, dự báo biến động của từng yếu tố để đưa ra các giải pháp, các chính sách phù hợp trong từng thời điểm nhằm tận dụng, khai thác những cơ hội, đồng thời né tránh và giảm thiểu các nguy cơ và đe dọa.

Thứ hai, yếu tố chính trị và pháp luật: Các yếu tố chính trị, pháp luật quy định các yếu tố khác của môi trường kinh doanh. Sự ổn định về chính trị, pháp luật sẽ tạo ra môi trường pháp lý ổn định giúp doanh nghiệp thuận lợi hơn trong cạnh tranh, đặc biệt là trong điều kiện mở cửa hội nhập quốc tế hiện nay. Môi trường chính trị, pháp luật đầy đủ, đồng bộ và ổn định sẽ đảm bảo các quyết định quản trị đạt được tỷ lệ thành công cao. Thiếu môi trường pháp lý đầy đủ sẽ dẫn tới cạnh tranh không lành mạnh, nảy sinh các tiêu cực trong hoạt động SXKD và tiêu thụ sản phẩm, năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp không duy trì được tính ổn định và lâu dài.

Thứ ba, yếu tố văn hóa, xã hội: Các yếu tố văn hóa xã hội bao gồm: thói quen tiêu dùng, ngôn ngữ, phong tục tập quán, cơ cấu dân số, phân hóa giàu nghèo…Trên cơ sở các nhân tố này, các doanh nghiệp cần thiết kế, xây


dựng mẫu mã, hình thức cũng như các đặc tính, lợi ích của sản phẩm cho phù hợp với người tiêu dùng, đặc biệt là khi thâm nhập vào một thị trường mới. Giải quyết tốt vấn đề này sẽ giúp cho doanh nghiệp cạnh tranh tốt hơn so với các doanh nghiệp muốn xâm nhập hay chính các doanh nghiệp đối thủ cạnh tranh hiện có trên thị trường.

Thứ tư, yếu tố tự nhiên: Yếu tố này cũng có tác động lớn đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, tùy từng doanh nghiệp khác nhau mà mức độ ảnh hưởng của yếu tố này cũng khác nhau. Bên cạnh một số tác động tích cực thì cơ bản thường tác động bất lợi đối với các hoạt động của doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp SXKD có liên quan đến điều kiện tự nhiên như sản xuất nông phẩm, thực phẩm theo mùa vụ… Để chủ động đối phó với các tác động của yếu tố tự nhiên, các doanh nghiệp phải chủ động xem xét, phân tích, dự báo mức độ ảnh hưởng của các yếu tố tự nhiên có liên quan, kết hợp với các thông tin, đánh giá của các cơ quan chuyên môn.

Thứ năm, yếu tố khoa học và công nghệ: Trong giai đoạn khoa học kỹ thuật phát triển mạnh mẽ hiện nay thì KHCN đóng vai trò ngày càng quan trọng đối với sức cạnh tranh của hàng hoá thông qua chất lượng, chi phí sản xuất. Doanh nghiệp có dây chuyền công nghệ hiện đại không có nghĩa là nó sẽ có lợi thế lâu dài trong cạnh tranh bởi dây chuyền công nghệ đó có thể sẽ lạc hậu chỉ sau một thời gian ngắn, đặc biệt trong các ngành về CNTT. Do đó thời gian khấu hao máy móc phải được rút ngắn và doanh nghiệp phải luôn có kế hoạch đổi mới công nghệ cho phù hợp. Sự phát triển của KHCN còn giúp các doanh nghiệp có cơ hội ứng dụng các công nghệ, kỹ thuật mới. Qua đó có thể trang bị, trang bị lại các cơ sở vật chất kỹ thuật của mình để tạo ra lợi thế trong cạnh tranh.

- Môi trường vi mô

Sử dụng mô hình 5 nhóm áp lực cạnh tranh của Michael Porter để phân


tích mức độ ảnh hưởng môi trường bên ngoài có tác động trực tiếp đến hoạt động SXKD của doanh nghiệp, bao gồm mối đe dọa từ những công ty có thể gia nhập thị trường, áp lực từ nhà cung ứng, nguy cơ từ những sản phẩm có thể thay thế, những quyền của người mua và cuối cùng hết sức quan trọng là áp lực cạnh tranh giữa các đơn vị trong ngành. Việc phân tích này giúp doanh nghiệp nhận ra những cơ hội và thách thức, qua đó doanh nghiệp biết mình đang ở vị trí nào.

Thứ nhất, nhà cung ứng: là bên cung ứng các yếu tố đầu vào cần thiết để doanh nghiệp tiến hành SXKD như nguyên vật liệu, máy móc thiết bị, vốn, nhân lực… Trong thời đại của sự phân công lao động, của chuyên môn hóa thì mọi doanh nghiệp không nên tiến hành sản xuất theo hình thức “tự cung, tự cấp” tức là tự lo cho mình từ khấu đầu vào đến khâu đầu ra. Điều này sẽ làm giảm hiệu quả sản xuất vì không tận dụng và phát huy được lợi thế so sánh giữa các ngành, các quốc gia. Các doanh nghiệp nên tìm đến những nhà cung ứng đầu vào bên ngoài có uy tín vì đây là điều kiện cần thiết để đảm bảo cho tiến trình SXKD được thuận lợi, đảm bảo cho đầu ra của các quá trình đó có năng suất và chất lượng cao. Nếu nhà cung cấp không giao hàng đúng hẹn, đúng chủng loại và đảm bảo chất lượng thì doanh nghiệp cũng dễ bị sai hẹn, chậm hợp đồng với khách hàng của mình và ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.

Thứ hai, khách hàng: Các hoạt động của doanh nghiệp đều nhằm mục tiêu thỏa mãn nhu cầu của khách hàng, doanh nghiệp càng đáp ứng tốt nhu cầu của khách hàng so với các đối thủ cạnh tranh thì càng nhận được sự ủng hộ và sự trung thành từ phía khách hàng. Trong điều kiện có sự cạnh tranh gay gắt thì vai trò của khách hàng càng trở nên quan trọng và ưu tiên hơn. Doanh nghiệp thường không thể thỏa mãn được nhu cầu của tất cả các đối tượng khách hàng, do đó cần phải phân loại khách hàng thành các nhóm khác


nhau, trên cơ sở đó tiến hành phân tích và đưa ra các chính sách thích hợp để thu hút ngày càng nhiều khách hàng.

Thứ ba, đối thủ cạnh tranh: Các đối thủ cạnh tranh trong ngành quyết định tính chất và mức độ tranh đua nhằm giữ vững và phát triển thị phần hiện có, đảm bảo thu được lợi nhuận cao nhất. Cạnh tranh càng trở nên khốc liệt khi ngành ở giai đoạn bão hòa, suy thoái hoặc có nhiều đối thủ cạnh tranh cùng năng lực với mình bởi đối tượng này có ảnh hưởng rất lớn đến doanh nghiệp, đồng thời là động lực kích thích mỗi doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao năng lực của mình. Để cạnh tranh thắng lợi, mỗi doanh nghiệp cần phải tìm hiểu, nghiên cứu mọi thông tin về đối thủ cạnh tranh, từ đó hoàn thiện những mặt còn yếu kém, phát huy các thế mạnh của doanh nghiệp, từng bước nâng cao năng lực cạnh tranh hơn đối thủ.

Thứ tư, đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn: Các đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn là các doanh nghiệp hiện chưa có mặt trong ngành nhưng có thể ảnh hưởng đến doanh nghiệp trong tương lai. Đối thủ tiềm ẩn nhiều hay ít, áp lực của họ mạnh hay yếu sẽ phụ thuộc vào các yếu tố: thứ nhất là sức hấp dẫn của ngành thể hiện qua các chỉ tiêu tỷ suất sinh lợi, số lượng khách hàng, số lượng doanh nghiệp trong ngành; thứ hai đó là những rào cản gia nhập ngành, đây là những yếu tố làm cho việc gia nhập ngành khó khăn, tốn kém hơn.

Thứ năm, sản phẩm thay thế: Các sản phẩm thay thế hạn chế mức lợi nhuận tiềm năng của một ngành bằng cách đặt một ngưỡng tối đa cho mức giá mà các công ty trong ngành có thể kinh doanh có lãi. Do các loại sản phẩm có tính thay thế cho nhau nên sẽ dẫn đến sự canh tranh trên thị trường. Khi giá của sản phẩm chính tăng thì sẽ khuyến khích xu hướng sử dụng sản phẩm thay thế và ngược lại. Do đó, việc phân biệt sản phẩm là chính hay là sản phẩm thay thế chỉ mang tính tương đối. Các yếu tố môi trường bên ngoài không chỉ ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh hiện tại mà còn quyết định cả

Xem tất cả 137 trang.

Ngày đăng: 12/06/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí