N.G.Marôzôva thì hứng thú của cá nhân với một đối tượng (hoạt động) nào đó được hình thành và phát triển qua 3 giai đoạn sau:
- Giai đoạn 1: Thái độ nhận thức có xúc cảm đối với hiện tượng, được xuất hiện dưới dạng rung động định kỳ. Ở giai đoạn này chủ thể chưa có hứng thú thật sự, do bị cuốn hút bởi nội dung của đối tượng, cá nhân trực tiếp thể hiện niềm vui khi nhận ra cái mới. Đây là giai đoạn đầu tiên của hứng thú. Những rung động đó có thể mất đi khi đối tượng không tác động trực tiếp nữa, nhưng cũng có thể, trên cơ sở đó hứng thú được phát triển. Hứng thú chỉ xuất hiện khi cá nhân mong muốn nắm bắt và có hành động để nắm bắt đối tượng.
- Giai đoạn 2: Ở giai đoạn này những rung động định kỳ được lặp đi lặp lại nhiều lần và được khái quát trở thành thái độ nhận thức có xúc cảm tích cực với đối tượng tức là hứng thú được duy trì. Thái độ nhận thức xúc cảm với đối tượng sẽ thúc đẩy chủ thể quan tâm tới những vấn đề đặt ra trước, trong và sau hoạt động. Nói cách khác, ở chủ thể đã có sự nảy sinh nhu cầu nhận thức, tìm tòi và phát hiện.
- Giai đoạn 3: Nếu thái độ tích cực đó được duy trì củng cố, khả năng tìm tòi và hành động độc lập ở cá nhân thường xuyên được khơi dậy thì hứng thú có thể trở thành xu hướng cá nhân. Ở mức độ này, hứng thú với đối tượng khiến cho toàn bộ lối sống của cá nhân được thay đổi: họ dành nhiều thời gian rảnh rỗi của mình vào việc tìm tòi thêm những kiến thức có liên quan đến vấn đề mình yêu thích, tham gia hoạt động ngoại khóa, đọc thêm sách, tìm gặp những người cùng quan tâm tới những vấn đề của mình. Hứng thú bền vững là giai đoạn cao nhất của sự phát triển hứng thú cá nhân. [1]
1.3. Hứng thú với hoạt động GDTC và thể thao của sinh viên
1.3.1. Một số đặc điểm tâm lý của sinh viên Đại học
Sinh viên là một nhóm xã hội đặc biệt, đang tiếp thu những kiến thức, kỹ năng chuyên môn ở các trường cao đẳng, đại học để chuẩn bị cho hoạt động nghề nghiệp sau khi ra trường.
Mỗi một lứa tuổi khác nhau đều có những đặc điểm tâm lý nổi bật, chịu sự chi phối của hoạt động chủ đạo. Hoạt động chủ đạo của sinh viên là tham gia các hoạt động giáo dục để tiếp thu kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp ở các trường cao đẳng, đại học. Một trong những đặc điểm tâm lý quan trọng nhất ở lứa tuổi thanh niên - sinh viên là sự phát triển tự ý thức. Nhờ đó, sinh viên có những hiểu biết, thái độ, có khả năng đánh giá bản thân để chủ động điều chỉnh sự phát triển bản thân theo hướng phù hợp với xu thế xã hội. Nhờ khả năng tự đánh giá phát triển mà sinh viên có thể nhìn nhận, xem xét năng lực của mình, kết quả thu được cao hay thấp phụ thuộc vào ý thức, thái độ, vào phương pháp tham gia các hoạt động của họ.
Ở sinh viên đã bước đầu hình thành thế giới quan để nhìn nhận, đánh giá vấn đề cuộc sống, học tập, sinh hoạt hàng ngày. Sinh viên là những trí thức tương lai, ở các em sớm nảy sinh nhu cầu, khát vọng thành đạt. Hoạt động trong môi trường giáo dục đại học là cơ hội tốt để sinh viên được trải nghiệm bản thân, vì thế, sinh viên rất thích khám phá, tìm tòi cái mới, đồng thời, họ thích bộc lộ những thế mạnh của bản thân, thích học hỏi, trau dồi, trang bị vốn sống, hiểu biết cho mình, dám đối mặt với thử thách để khẳng định mình.
Một đặc điểm tâm lý nổi bật nữa ở lứa tuổi này là tình cảm ổn định của sinh viên, trong đó phải đề cập đến tình cảm nghề nghiệp - một động lực giúp họ hoạt động một cách chăm chỉ, sáng tạo, khi họ thực sự yêu thích và đam mê với các hoạt động lựa chọn.
Có thể bạn quan tâm!
- Nâng cao hứng thú với giờ học giáo dục thể chất cho sinh viên trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật - Đại học Thái Nguyên - 2
- Cấu Trúc Và Biểu Hiện Của Hứng Thú Cấu Trúc Của Hứng Thú:
- Mối Quan Hệ Giữa Khái Niệm Hứng Thú Với Các Hiện Tượng Tâm Lý Khác Hứng Thú Là Một Hiện Tượng Tâm Lý Phức Tạp, Để Hiểu Rõ Bản Chất Của Nó,
- Đối Tượng Và Phạm Vi Nghiên Cứu Đối Tượng Nghiên Cứu:
- Xác Định Cơ Sở Lý Luận Và Nội Dung Khảo Sát Mức Độ Hứng Thú Của Sinh Viên Với Hoạt Động Giáo Dục Thể Chất Và Thể Thao.
- Kết Quả Khảo Sát Mức Độ Yêu Thích Với Hoạt Động Gdtc Và Tt Của Sv (N=98)
Xem toàn bộ 101 trang tài liệu này.
Sinh viên là lứa tuổi đạt đến độ phát triển sung mãn của đời người. Họ là lớp người giàu nghị lực, giàu ước mơ và hoài bão. Tuy nhiên, do quy luật phát triển không đồng đều về mặt tâm lý, do những điều kiện, hoàn cảnh sống và cách thức giáo dục khác nhau, không phải bất cứ sinh viên nào cũng được phát triển tối ưu, độ chín muồi trong suy nghĩ và hành động còn hạn chế. Đó là sự thiếu chín chắn trong suy nghĩ, hành động, đặc biệt, trong việc tiếp thu, học hỏi những cái mới. Ngày nay, trong xu thế mở cửa, hội nhập quốc tế, trong điều
kiện phát triển công nghệ thông tin, nền văn hoá của chúng ta có nhiều điều kiện giao lưu, tiếp xúc với các nền văn hoá trên thế giới. Việc học tập, tiếp thu những tinh hoa, văn hoá của các nền văn hoá khác là cần thiết. Tuy nhiên, do đặc điểm nhạy cảm, ham thích những điều mới lạ kết hợp với sự bồng bột, thiếu kinh nghiệm của thanh niên, do đó, sinh viên dễ dàng tiếp nhận cả những nét văn hoá không phù hợp với chuẩn mực xã hội, với truyền thống tốt đẹp của dân tộc và không có lợi cho bản thân họ.
Lứa tuổi sinh viên có những nét tâm lý điển hình, đây là thế mạnh của họ so với các lứa tuổi khác như: tự ý thức cao, có tình cảm nghề nghiệp, có năng lực và tình cảm trí tuệ phát triển (khao khát đi tìm cái mới, thích tìm tòi, khám phá), có nhu cầu, khát vọng thành đạt, nhiều mơ ước và thích trải nghiệm, dám đối mặt với thử thách. Song, do hạn chế của kinh nghiệm sống, sinh viên cũng có hạn chế trong việc chọn lọc, tiếp thu cái mới. Những yếu tố tâm lý này có tác động chi phối hoạt động học tập, rèn luyện và phấn đấu của sinh viên.[25]
1.3.2. Khái niệm hứng thú với hoạt động GDTC và thể thao của sinh viên
* Khái niệm
Từ khái niệm: “Hứng thú là thái độ lựa chọn đặc biệt của cá nhân đối với đối tượng nào đó, vừa có ý nghĩa đối với cuộc sống, vừa có khả năng đem lại khoái cảm cho cá nhân trong quá trình hoạt động”. Cùng với những phân tích trên, chúng tôi đi đến định nghĩa về hứng thú với hoạt động GDTC và thể thao của sinh viên như sau:
“Hứng thú với hoạt động GDTC và thể thao của sinh viên là thái độ lựa chọn đặc biệt của sinh viên đối với các nội dung, hình thức nào đó của hoạt động GDTC và thể thao, do thấy được sự hấp dẫn và ý nghĩa thiết thực của nó đối với bản thân”.
* Biểu hiện hứng thú với hoạt động GDTC và thể thao của sinh viên Hứng thú với các hoạt động GDTC và thể thao của sinh viên được biểu
hiện thông qua các dấu hiệu cụ thể về mặt nhận thức, cảm xúc và hành động
với các hoạt động GDTC và thể thao trong nhà trường cũng như trong cuộc sống hàng ngày ngoài xã hội. Những biểu hiện này khá phong phú, đa dạng và nhiều khi còn phức tạp, chúng có thể đan xen vào nhau.
Biểu hiện về mặt nhận thức: sinh viên tích cực tìm hiểu và nhận thức đầy đủ về mục đích, ý nghĩa, tác dụng của thể dục thể thao, đây là những nguyên nhân của sự yêu thích; Những nguyên nhân đó có thể trực tiếp liên quan đến đối tượng của các hoạt động GDTC và thể thao (nội dung, hình thức, phương pháp tập luyện..), hoặc gián tiếp liên quan đến đối tượng trên (nội dung tập luyện được ứng dụng nhiều trong thực tiễn, giáo viên dạy hay...).
Biểu hiện về mặt xúc cảm: sinh viên có xúc cảm tích cực (yêu thích, say mê...) đối với các hoạt động GDTC và thể thao: Các em thực sự yêu thích các hoạt động thể dục thể thao (hoặc môn thể thao, hình thức tập luyện… nào đó) và coi đó là niềm vui, niềm hạnh phúc khi được tham gia.
Biểu hiện về mặt hành động: sinh viên biểu hiện bằng các hành động tích cực, chủ động, sáng tạo với các hoạt động GDTC và thể thao như:
Đối với các hoạt động GDTC chính khóa:
- Chấp hành tốt các nội quy của giờ học thể dục ( lên lớp đúng giờ và sử dụng trang phục đúng quy định của giờ học thể dục...);
- Tập trung, chú ý, lắng nghe giảng viên giảng dạy và thực hiện động tác mẫu;
- Chủ động trao đổi với giảng viên, cán sự hoặc bạn về những kỹ thuật động tác khó;
- Tích cực tập luyện trong giờ học.
Đối với các hoạt động thể thao ngoại khóa:
- Tập luyện thêm khi có thời gian rảnh rỗi;
- Tham gia các CLB thể thao của trường và các tổ chức khác;
- Đọc, tìm hiểu các sách báo có liên quan đến GDTC và thể thao;
- Tuyên truyền về vai trò của thể dục, thể thao cho những người sống xung quanh;
- Vận động mọi người tham gia tập luyện thể dục, thể thao.
Biểu hiện về mặt kết quả: Kết quả học tập, rèn luyện tốt như: Hoàn thành tốt các yêu cầu của môn học; đạt các tiêu chuẩn về rèn luyện thân thể; có đóng góp tích cực cho giờ học và các hoạt động thể thao của lớp, trường cũng như địa phương.
* Mức độ hứng thú với hoạt động GDTC và thể thao của sinh viên
Như đã trình bày ở trên (trang 6), trong phạm vi chuyên đề, chúng tôi phân chia mức độ của hứng thú đối với hoạt động GDTC và thể thao thành 3 cấp độ. Các mức độ của hứng thú được phân chia như sau:
- Hứng thú cao: Sinh viên có cảm xúc dương tính mạnh mẽ với hoạt động GDTC và thể thao, điều này xuất phát từ nhận thức đúng và đủ về hoạt động này. Kèm theo đó là việc sinh viên tích cực, chủ động cao trong việc nắm bắt và tham gia vào các hoạt động.
- Hứng thú (mức trung bình): Sinh viên có xúc cảm dương tính ở mức vừa phải với hoạt động GDTC và thể thao; Có nhận thức đúng hoặc tương đối đúng, đủ về đối tượng; Có hành động tích cực tham gia các hoạt động nhưng chưa ở mức chủ động cao.
- Chưa (không) hứng thú: Sinh viên không có xúc cảm dương tính với hoạt động GDTC và thể thao, chưa có nhận thức hoặc nhận thức sai về hoạt động này. Do vậy chưa có hành động tích cực, chủ động để chiếm lĩnh và tham gia hoạt động. Hoặc giữa 3 mặt xúc cảm - nhận thức - hành động chưa có sự tương quan, đồng bộ (VD: rất yêu thích thể thao nhưng chưa tích cực tham gia các hoạt động thể thao, hoặc rất tích cực tham gia hoạt động thể thao nhưng không xuất phát từ sự yêu thích mà tham gia vì những mục đích tiêu cực…).
1.3.3. Một số biện pháp nâng cao hứng thú với hoạt động GDTC và thể thao của sinh viên
Là một mặt biểu hiện của xu hướng nhân cách, một trong những thành phần trong hệ thống động cơ của con người. Do đó muốn nâng cao hứng thú
của sinh viên với các hoạt động GDTC và thể thao thì trước hết phải hình thành động cơ cho họ, giáo dục động cơ tham gia hoạt động thể thao và nhu cầu tập luyện đúng đắn. Động cơ hoạt động thể thao tốt không tự nhiên mà có, nó cần được xây dựng trong quá trình sinh viên đi sâu chiếm lĩnh kiến thức về thể thao dưới sự hướng dẫn của giảng viên. Động cơ tham gia hoạt động GDTC và thể thao rất đa dạng, muốn phát động được động cơ đúng đắn, động cơ chiếm lĩnh hoạt động này thì trước hết cần khơi dậy cho họ nhu cầu của họ với hoạt động thể thao hoặc đáp ứng nhu cầu sẵn có của họ. Vì nhu cầu là chính là nơi khơi nguồn của tính tự giác, tích cực trong mọi hoạt động.
Bên cạnh đó, hành vi của con người phụ thuộc vào nhiều yếu tố khách quan nhất là ở sinh viên có nhân cách chưa hình thành ổn định nên môi trường khách quan cần có những điều kiện thuận lợi để cho hứng thú với các hoạt động GDTC và thể thao phát triển như các hoạt động thể thao phong phú, điều kiện cơ sở vật chất tốt, sự động viên, giáo dục kịp thời của giảng viên… Qua nghiên cứu lý luận và thực tiễn quá trình công tác, chúng tôi đề xuất một số biện pháp nâng cao hứng thú của sinh viên với các hoạt động GDTC và thể thao như sau:
- Giảng viên cần không ngừng trau dồi kiến thức, kỹ năng, phẩm chất đạo đức, nghề nghiệp; Đổi mới phương pháp giảng dạy và hình thức tổ chức các hoạt động; Luôn là một tấm gương sang về lối sống, rèn luyện sức khỏe và luôn nêu cao tinh thần cao thượng của thể thao;
- Bằng nhiều hình thức khác nhau, giảng viên cần giúp cho sinh viên thấy được ý nghĩa, vai trò, sự cần thiết của thể dục, thể thao với đời sống của con người;
- Hướng dẫn sinh viên biết cách tự tập luyện và tham gia các hoạt động thể dục, thể thao cũng như vận động, hướng dẫn người khác tham gia; Hướng dẫn sinh viên biết vận dụng những kiến thức, kỹ năng đạt được trong quá trình tham gia các hoạt động thể thao vào các hoạt động khác trong cuộc sống;
- Mỗi giảng viên phải luôn luôn phối hợp với các đồng nghiệp và các cơ quan quản lý để làm phong phú hơn các nội dung giảng dạy trong các giờ GDTC chính khóa và các hoạt động thể thao ngoại khóa, đặc biệt là các hoạt động tập thể; Cần tăng cường các hình thức trò chơi và thi đấu trong mọi hoạt động thể dục, thể thao nhằm tạo ra sự đua tranh của sinh viên khi tham gia, kích thích hứng thú với hoạt động này;
- Vận dụng triệt để (theo điều kiện khách quan) quan điểm phân hóa trong việc tổ chức các hoạt động GDTC và thể thao cho sinh viên. Mỗi một sinh viên hoặc nhóm sinh viên luôn có những nhu cầu, sở thích và trình độ tập luyện khác nhau, do vậy việc tổ chức hoạt động GDTC và thể thao hướng đến sự đáp ứng sự khác nhau đó là điều hết sức cần thiết. Điều đó bao gồm cả việc phát huy tối đa khả năng của những sinh viên có năng khiếu thể thao cũng như giúp đỡ những sinh viên có sức khỏe yếu tập luyện và tiến bộ;
- Đặt ra yêu cầu phù hợp với mỗi nhóm đối tượng khác nhau; Giới thiệu các nguồn thông tin về thể dục, thể thao; Hướng dẫn, tư vấn cho sinh viên lựa chọn những hoạt động thể thao phù hợp;
- Thầy cô và các cấp quản lý cần có những đánh giá, ghi nhận thành tích hay những tiến bộ của sinh viên kịp thời nhằm củng cố những thay đổi tích cực. Đặc biệt những sinh viên có đóng góp cho phong trào thể dục thể thao của khoa, trường và ngoài xã hội.
1.4. Tổng quan lịch sử nghiên cứu vấn đề
Hứng thú có vai trò rất lớn đến hiệu quả hoạt động của con người. Do vậy, hứng thú của người học là một chủ đề nghiên cứu luôn được các nhà giáo dục quan tâm nghiên cứu. Tuy nhiên trong lĩnh vực GDTC và thể thao trường học thì vấn đề này còn ít được quan tâm nghiên cứu. Dưới đây là một vài công trình nghiên cứu về hứng thú học tập nói chung và hứng thú trong lĩnh vực GDTC nói riêng.
Tác giả Nguyễn Trung Kiên đã nghiên cứu đề tài khóa luận tốt nghiệp
với chủ đề “Nâng cao hứng thú với giờ học thể dục cho học sinh Trường THCS Hương Sơn – TP Thái Nguyên”. Đề tài đã đánh giá thực trạng hứng thú của học sinh và đề xuất một số biện pháp nâng cao hứng thú với giờ học thể dục cho học sinh.
Tác giả Nguyễn Thị Kim Oanh (2013) đã công bố kết quả nghiên cứu với đề tài “Thực trạng hứng thú học tập các môn học thực tập sư phạm của sinh viên Khoa Sư phạm Kỹ thuật – Trường ĐH Bách khoa Hà Nội” Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra được thực trạng nhận thức và thái độ của sinh viên đối với các môn học rèn luyện nghiệp vụ sư phạm.
Tiến sĩ Vương Huy Thọ nghiên cứu về “Biện pháp phát triển hứng thú học tập cho học sinh trong dạy học nghề phổ thông”. Tác giả đã đề xuất một số biện pháp phát triến hứng thú học tập cho học sinh trong dạy nghề phổ thông như: Lựa chọn nội dung, phương pháp, hình thức dạy học phù hợp; Xây dựng môi trường học tập thân thiện… Tác giả cũng đưa ra quy trình dạy học theo hướng phát triển hứng thú học tập cho học sinh gồm 5 bước: Cụ thể hóa mục tiêu bài học; Thiết kế nội dung, lựa chọn phương pháp và hình thức tổ chức dạy học; Thiết kế giáo án; Thực hiện tiến trình dạy học; Tổng kết và đánh giá.
Nhóm tác giả Lưu Thị Trí và Nguyễn Thị Bình có bài viết về “Một số vấn đề về hứng thú học tập và tạo hứng thú học tập cho sinh viên”. Bài viết khẳng định vai trò của việc tạo hứng thú cho sinh viên trong dạy học ở trương đại học. Tiếp đó tác giả đưa ra các số liệu chứng minh rằng hiện nay ít sinh viên có hứng thú học tập và có phương pháp học tập phù hợp, sinh viên lười phát biểu trong quá trình thảo luận… Cuối cùng tác giả đề xuất một số biện pháp tạo hứng thú học tập cho sinh viên.
Các công trình nghiên cứu về khoa học giáo dục nói chung và về hứng thú học tập nói riêng đều có ý nghĩa về mặt lý luận và thực tiễn nhất định trong từng hoàn cảnh, từng giai đoạn. Những kết quả nghiên cứu đó tạo nên cơ sở, chỗ dựa và mở đường cho những nghiên cứu tiếp theo. Tuy nhiên, việc nghiên