kém và ngân hàng cần phải xem xét lại hoạt động tín dụng của mình nếu không
muốn rơi vào tình trạng khó khăn. Tuy nhiên, nợ xấu là một vấn đề khó tránh
khỏi trong hoạt động tín dụng NH, do đó điều quan trọng là NHTM cần duy trì tỷ lệ nợ xấu ở mức thấp nhất là có thể chấp nhận được. Theo NH Thế giới, tỷ lệ này ở mức dưới 5% là có thể chấp nhận được, tốt ở mức 1 –3%.
Trên đây là các chỉ tiêu cơ bản để đánh giá chất lượng tín dụng. Dựa vào các chỉ tiêu đó có thể nhận định được chất lượng tín dụng ngân hàng cao hay thấp. Trên góc độ của các NHTM, đánh giá chất lượng tín dụng chủ yếu nhằm vào việc đảm bảo an toàn trong hoạt động kinh doanh, khả năng sinh lời cao cũng như đảm bảo sự phát triển bền vững của ngân hàng. Do vậy, khi đánh giá chất lượng tín dụng không chỉ căn cứ vào một chỉ tiêu đơn lẻ, cụ thể nào mà phải xem xét, đánh giá mọi phương diện để đưa ra kết luận một cách khách quan, trung thực và chính xác nhất.
c. Dự phòng rủi ro tín dụng
Dự phòng rủi ro: là khoản tiền được trích lập để dự phòng cho những tổn thất có thể xảy ra do khách hàng của các NH không thực hiện nghĩa vụ theo cam kết. Dự phòng rủi ro được tính theo dư nợ gốc và kết quả phân loại nợ của các khoản cho vay khách hàng. Các ngân hàng căn cứ vào các tiêu chuẩn định tính và định lượng để đánh giá mức độ rủi ro của các khoản vay và các cam kết ngoại bảng, trên cơ sở đó phân loại các khoản nợ vào các nhóm nợ thích hợp
Trên bảng cân đối kế toán của ngân hàng, dự phòng phản ánh sự suy giảm của tài sản trước những tổn thất có khả năng xảy ra. Trong bảng kết quả kinh doanh, dự phòng là một khoản chi phí phi tiền mặt, được ghi nhận làm giảm lợi nhuận/vốn chủ sở hữu của ngân hàng. Dự phòng tín dụng bao gồm 2 loại sau:
Dự phòng cụ thể: là loại dự phòng được trích lập cho những tổn thất có thể xảy ra đối với từng khoản nợ cụ thể. Dự phòng cụ thể được tính theo công thức sau:
Dự phòng cụ thể = Tỷ lệ trích lập x (Số dư khoản nợ – Giá trị khấu trừ của TSĐB)
Với giá trị khấu trừ của tài sản đảm bảo và tỷ lệ trích lập dự phòng đối với từng nhóm nợ được Ngân hàng Nhà nước quy định theo từng thời kỳ.
Có thể bạn quan tâm!
- Hoạt Động Tín Dụng Của Ngân Hàng Thương Mại
- Quy Trình Cho Vay Cơ Bản Của Các Nhtm Việt Nam Ồt G S
- Nhóm Chỉ Tiêu Thể Hiện Khả Năng Sinh Lời Từ Hoạt Động Tín Dụng
- Mô Hình “3 Vòng Kiểm Soát” Rủi Ro Tínhdàụnng Củarnhtm
- Ý Nghĩa Của Việc Nâng Cao Chất Lượng Tín Dụng Của Ngân Hàng Thương Mại
- Bài Học Rút Ra Trong Công Tác Nâng Cao Chất Lượng Tín Dụng Đối Với Các Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Việt Nam
Xem toàn bộ 254 trang tài liệu này.
Từ ngày 1 tháng 1 năm 2015, Ngân hàng phải sử dụng kết quả phân loại nợ đối với khách hàng do CIC cung cấp tại thời điểm phân loại để điều chỉnh kết quả tự phân loại nợ [18]
Dự phòng chung: là loại dự phòng được trích lập để dự phòng cho những
tổn thất có thể
xảy ra, nhưng chưa xác định được khi trích lập dự
phòng cụ
thể. Việc trích lập dự phòng rủi ro tín dụng được thực hiện trên cơ sở kết quả phân loại nợ và theo tỷ lệ trích do Thống đốc Ngân hàng nhà nước qui định. Dự phòng chung được trích bằng 0,75% tổng giá trị của các khoản nợ từ nhóm 1 đến nhóm 4.
1.2.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng của ngân hàng thương mại
Để thực hiện tốt việc nâng cao chất lượng tín dụng cần xem xét các nhân
tố tác động ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến hoạt động này, cụ sau:
1.2.3.1 Nhóm nhân tố chủ quan
thể như
Các nhân tố chủ quan thường liên quan đến sự phấn đấu của bản thân ngân
hàng trên tất cả các mặt của hoạt động tín dụng như việc xây dựng chiến lược,
sách lược trong quá trình phát triển, các chính sách tín dụng, xây dựng cơ cấu tổ
chức ngân hàng nói chung và quản lý hoạt động tín dụng nói riêng, công tác kiểm tra, kiểm soát và thiết lập hệ thống thông tin,.…Vì vậy, các yếu tố bên trong ngân hàng thường có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng tín dụng. Tác giả nghiên cứu sự ảnh hưởng đó qua một số nhân tố sau:
Một là: Chiến lược và chính sách tín dụng
Chiến lược tín dụng: Ngân hàng cần xác định được tầm nhìn, mục tiêu, sứ mệnh của ngân hàng để từ đó đưa ra “khẩu vị rủi ro tín dụng” là mức độ rủi ro có thể chấp nhận được để từ đó hoạch định chiến lược quản trị tín dụng phù hợp.
Chính sách tín dụng: để thực hiện chiến lược tín dụng Ban điều hành đưa ra các chính sách là cơ sở để hình thành nên quy trình tín dụng với những
hướng dẫn nghiệp vụ
chi tiết, các bước cụ
thể
trong quá trình cấp tín dụng.
Chính sách tín dụng cũng quy định giới hạn cho vay đối với khách hàng, phân loại
nợ, trích lập dự
phòng. Chính sách phải vạch ra cho cán bộ
tín dụng phương
hướng hoạt động và một khung tham chiếu rõ ràng để làm căn cứ xem xét các nhu cầu vay vốn.
Chính sách TD đã cụ thể hóa và phù hợp với
chiến
lược
kinh doanh của
NHTM, luôn hướng tới các mục tiêu lợi nhuận, an toàn và lành mạnh. Các nội
dung chủ yếu của chính sách TD bao gồm:
+ Quy trình tín dụng: bao gồm
những
qui định
phải
thực
hiện
trong quá
trình cho vay, thu nợ nhằm đảm bảo an toàn vốn tín dụng; được bắt đầu từ khi
chuẩn
bị cho vay, phát tiền
vay, kiểm
tra quá trình sử dụng
vốn
cho đến
khi
thu hồi được nợ. Chất lượng tín dụng có đảm bảo hay không tùy thuộc vào việc
thực
hiện
tốt
các qui định
ở từng
bước
và sự phối
hợp
nhịp
nhàng giữa
các
bước trong qui trình tín dụng. Nếu
một
NHTM thực
hiện
chuẩn
các bước
của
quy trình tín dụng thì chất lượng tín của ngân hàng sẽ được nâng cao và ngược lại.
+ Mức ủy quyền phán quyết: là hạn mức tín dụng tối đa mà hội sở chính giao cho chi nhánh được toàn quyền quyết định.
+ Tiêu chuẩn cấp tín dụng: là tập hợp các điều kiện người vay phải đáp
ứng để được
ngân hàng cấp
tín dụng.
Các tiêu chuẩn
cấp
tín dụng
thường
phải
thể hiện
được
các nội
dung chính: Khả năng tài chính và thiện
chí trả
nợ của
người
vay, mục
đích và hiệu
quả sử dụng
vốn
vay và đảm
bảo
tín
dụng.
Hệ thống
tiêu chuẩn
phải
cụ thể theo từng
loại
hình cho vay, từng
đối
tượng
khách hàng. Tiêu chuẩn tín dụng rõ ràng, cụ thể là cơ sở quan trọng
để có thể phê duyệt
một
khoản
tín dụng
an toàn và thận
trọng.
Bởi
vì, tiêu
chuẩn
tín dụng
không những
là cơ sở để xác định
loại
khách hàng và đặc
điểm khách hàng mà còn quyết định đến CLTD của khoản tín dụng được cấp
+ Giới hạn cấp tín dụng: Đây là công cụ quan trọng để kiểm soát CLTD
thông qua việc
khống
chế phạm vi,
qui mô và quyền
hạn
cấp
tín dụng.
Giới
hạn
tín dụng là khối
lượng
tín dụng
tối
đa được
cấp
cho một
khách hàng.
Giới
hạn
tín dụng
phải
thiết
lập
cụ thể cho từng
khách hàng, từng
sản
phẩm tín dụng,
từng
kỳ hạn, từng
lĩnh vực hoạt động, từng ngành nghề, từng
loại tiền và khu vực địa lý. Giới hạn tín dụng phải căn cứ vào các yếu tố như:
do cơ quan có thẩm quyền
qui định,
khẩu
vị,
chiến
lược
rủi
ro ngân hàng đã
xác định,
đặc
điểm,
khả năng tài chính của
khách hàng và điều
kiện, môi
trường bên ngoài (môi trường kinh tế, chính trị, xã hội, tự nhiên…). Giới hạn
tín dụng
được
thiết
lập
nhằm đảm bảo
các hoạt
động
cấp
tín dụng
được đa
dạng hóa, các giới hạn này cần mang tính ràng buộc và không tùy thuộc vào nhu cầu của khách hàng.
+ Quản trị danh mục cho vay
Ngân hàng phải thường xuyên phân tích và theo dõi danh mục tín dụng đặc biệt là các khoản nợ xấu, nợ có vấn đề để có những biện pháp xử lý kịp thời khi có rủi ro xảy ra. Trên cơ sở danh mục cho vay, ngân hàng tiến hành phân loại nợ để phân loại các khoản nợ vào các nhóm nợ trong hạn, nợ cần đặc biệt lưu ý, nợ dưới chuẩn, nợ nghi ngờ và nợ có khả năng mất vốn. Ngoài ra, ngân hàng cũng cần hết sức lưu ý đến các khoản nợ đặc biệt chú ý vì khi có biến động bất lợi xảy ra đối với hoạt động cho vay của ngân hàng, các khoản này dễ bị chuyển thành nợ xấu. Ngân hàng đưa ra các biện pháp quản trị các khoản nợ trên để đảm bảo chất lượng tín dụng cho ngân hàng.
Ngoài ra, chính sách tín dụng còn bao gồm các chính sách như: đối tượng vay vốn, nhu cầu vay vốn, lãi suất cho vay, thời hạn cho vay, hạn mức tín dụng, các mức phí, các loại hình thức cho vay, tiêu chuẩn tín dụng đối với khách hàng,
lĩnh vực
tài trợ,
biện
pháp bảo đảm tiền
vay, quy trình quản lý tín dụng,...Tùy
từng
trường
hợp,
khả năng của
khách hàng mà ngân hàng đưa
ra những
chính
sách phù hợp, ví dụ như: cho vay có đảm bảo bằng tài sản, cho vay không đảm bảo bằng tài sản, cho vay bổ sung vốn lưu động để SXKD với hạn mức cao
Nếu chính sách tín dụng đúng đắn, phù hợp sẽ thu hút được khách hàng, mở rộng quy mô cho vay, đảm bảo được khả năng sinh lời trên cơ sở tuân thủ pháp luật và có thể phân tán được rủi ro. Một chính sách tín dụng hợp lý sẽ tạo điều kiện cho NHTM sử dụng tối ưu hóa nguồn vốn của mình khi cho vay, tạo
điều kiện thuận lợi cho việc mở rộng quy mô tín dụng, đảm bảo an toàn trong
kinh doanh là điều kiện tiền đề quan trọng nâng cao chất lượng tín dụng của NHTM. Nếu chính sách tín dụng của NH mang tính cạnh tranh với các NHTM
khác, duy trì được
KH hiện
tại
và thu hút được
các KH mới
thì chứng tỏ
CLTD tại NH được đánh giá cao và ngược lại
Hai là: Tổ chức và quản trị điều hành tín dụng
Bộ máy tổ chức và quản trị điều hành tín dụng luôn là công cụ quan trọng nhất để các nhà lãnh đạo ngân hàng thông qua đó tiến hành quản trị điều hành theo chiến lược và chính sách tín dụng đã hoạch định. Nguyên tắc chung để xây
dựng
bộ máy tổ chức
hiệu
quả là phải
thực
hiện
tách biệt
giữa
chức
năng
hoạch
định
chiến
lược
của Hội đồng quản trị, chức
năng tổ chức
điều
hành
của Ban
giám đốc và
chức
năng kiểm
tra giám sát của Ban
kiểm
soát. Hiện
nay, tại các ngân hàng hiện đại, bộ máy tổ chức và quản trị điều hành tín dụng được thực hiện theo 2 mô hình phổ biến, đó là: mô hình quản trị tín dụng tập trung và mô hình quản trị tín dụng phân tán. Ngoài ra còn có mô hình kết hợp giữa tập trung và phân tán, tức là tùy từng lĩnh vực, ngành nghề, loại hình sản phẩm dịch vụ hay khách hàng có thể áp dụng mô hình quản trị tập trung tại Hội sở hay phân cấp xuống từng chi nhánh.
Mô hình quản trị tín dụng tập trung
Là cách thức tổ chức quản trị dựa trên nguyên tắc tập trung tại một bộ phận, quyền quyết định khoản vay tập trung ở Hội sở. Thông tin về hoạt động ngân hàng tập trung cao tại Hội sở trên cơ sở đó Hội sở có thể xây dựng, kiểm tra các mục tiêu và tầm nhìn chiến lược, xác định mô hình QTRRTD của ngân hàng. Các quyết định vay vượt hạn mức đều tập trung vào quyết định cho vay của Hội sở, điều này sẽ hạn chế rủi ro cho toàn hệ thống
Mô hình quản trị tín dụng ra đời dựa trên nguyên tắc chính là tách biệt giữa 3 chức năng: kinh doanh, quản trị rủi ro, tác nghiệp.
+ Bộ phận quan hệ khách hàng: có chức năng chính là khởi tạo kinh doanh, củng cố và phát triển đội ngũ khách hàng với những công việc chính sau: (i) Xác định nhóm khách hàng mục tiêu (ii) Xác định giới hạn tín dụng đối với từng khách hàng (iii) Phát triển thị phần và bán sản phẩm, dịch vụ (iv) Quản lý và phát triển quan hệ với khách hàng (v) Hỗ trợ khách hàng trong quá trình giao dịch.
+ Bộ phận quản trị rủi ro tín dụng: có chức năng rà soát rủi ro và kiểm
soát rủi ro ở mức thấp nhất với các công việc chính như: (i) Xây dựng chiến
lược và chính sách QTRRTD; (ii) Quản trị các danh mục tín dụng; (iii) Rà soát các đề xuất tín dụng đối với khách hàng trong đó chú trọng đến việc tuân thủ chính
sách tín dụng, hồ sơ, thủ tục, phát hiện rủi ro; (iv) Giám sát quá trình phê duyệt tín dụng và rủi ro trong quá trình giao dịch với khách hàng.
+ Bộ phận quản lý nợ và thống kê báo cáo: có chức năng duy trì số liệu trên hệ thống khớp đúng với số liệu trên hồ sơ đồng thời thực hiện hồ sơ tín dụng đầy đủ và an toàn với các công việc chính như: (i) Kiểm soát tuân thủ quy trình; (ii) Cập nhật thông tin trên hệ thống; (iv) Quản lý hồ sơ.
Điều kiện áp dụng Mô hình quản trị tín dụng tập trung:
+ Về năng lực tài chính: Mô hình tập trung cần có tiềm lực tài chính mạnh
để đầu tư
vào hệ
thống công nghệ
và nhân lực có khả
năng chuyên môn hóa
trong công tác QTRRTD.
+ Về công nghệ và hệ thống thông tin quản lí: Mô hình tập trung cần có hệ thống dữ liệu thống nhất tập trung tại Hội sở.
+ Về nhân sự: Phương pháp này cần có một đội ngũ chuyên gia tín dụng có bề dày kinh nghiệm, được đào tạo bài bản, học hỏi kinh nghiệm nước ngoài.
+ Về hệ thống quản trị: Hệ thống quản trị và tổ chức đã được kiện toàn, việc phân cấp ủy quyền rõ ràng, tránh sự chồng chéo về chức năng.
+ Về thị trường: Mô hình tập trung được áp dụng trong thị trường tài chính phát triển, các hoạt động cạnh tranh lành mạnh
Mô hình quản trị tín dụng phân tán
Là cách thức tổ chức hoạt động quản trị tín dụng ở nhiều bộ phận khác nhau, quyền quyết định và quản trị rủi ro khoản vay không tập trung ở Hội sở mà dàn đều ở cấp cơ sở, thực hiện tại các chi nhánh riêng biệt. Hội sở chính chỉ có nhiệm vụ là chỉ đạo định hướng chung và thẩm định những khách hàng vượt quá khả năng cho phép của chi nhánh. Mô hình này chưa tách biệt được độc lập giữa
3 chức năng: Chức năng kinh doanh, chức năng quản trị nghiệp.
Đặc điểm của mô hình phân tán:
rủi ro, chức năng tác
+ Một là, quyền lực không tập trung vào Hội sở, thông tin bị phân tán dẫn đến tình trạng Hội sở khó có khả năng xây dựng, kiểm tra các mục tiêu chiến lược, các quyết định phòng ngừa RRTD của ngân hàng.
+ Hai là, chưa có sự tách bạch rõ giữa chức năng quản trị rủi ro, kinh doanh và tác nghiệp trong hoạt động tín dụng. Trong đó, phòng tín dụng của ngân hàng thực hiện đầy đủ 3 chức năng và chịu trách nhiệm đối với mọi khâu chuẩn bị cho một khoản vay. Các phòng ban khác trong ngân hàng có các sản phẩm có tính chất tín dụng như L/C miễn kí quỹ, chiết khấu chứng từ... cũng tham gia hoạt động quản trị rủi ro. Thành viên Ban lãnh đạo hoặc phó trưởng phòng tín dụng cũng đảm nhiệm duyệt cả 3 khâu của quá trình cho vay.
+ Ba là, hoạt động tín dụng và quản trị rủi ro được thực hiện độc lập ở các chi nhánh. Mỗi giám đốc chi nhánh tự đưa ra phán quyết tín dụng và chịu trách nhiệm về quyết định của mình.
Điều kiện áp dụng mô hình
+ Điều kiện về năng lực tài chính: Do mô hình phân tán mang tính tự phát nên không đòi hỏi nhiều về điều kiện tài chính.
+ Điều kiện về công nghệ và hệ thống thông tin quản lí: áp dụng công
nghệ đơn giản, quy trình khép kín, hồ sơ giấy tờ do một người quản lí, áp dụng trong môi trường ngân hàng quy mô nhỏ.
+ Điều kiện nhân sự: Hệ thống nhân viên có kiến thức bao quát hoạt động tín dụng và am hiểu tất cả các khâu của quy trình tín dụng, có thể đảm nhiệm nhiều nhiệm vụ trong quy trình tín dụng.
+ Điều kiện về hệ thống quản trị: ngân hàng có hệ thống giản đơn, tách bạch giữa quyền lực Hội đồng quản trị và cấp điều hành, các phòng ban phân theo địa giới, không có sự chuyên môn hóa trong hoạt động quản trị tín dụng
+ Điều kiện về thị trường: Mô hình phân tán hiện chỉ chủ yếu áp dụng tại thị trường tài chính chưa phát triển, các ngân hàng có hệ thống chi nhánh và tổ chức chưa hoàn thiện hoặc là áp dụng với các ngân hàng có quy mô nhỏ.
Khi xây dựng
mô hình Bộ máy tổ chức và quản trị tín dụng,
t h e o thông lệ
quốc tế và chuẩn mực Basel 2 có một số điểm cơ bản như: (i) Phân tách bộ máy
cấp tín dụng theo các bộ phận
tiếp
thị,
bộ phận
phân tích tín dụng
và bộ phận
phê duyệt
tín dụng
cũng như trách nhiệm rõ ràng của các bộ phận tham gia; (ii)
Nâng cao năng lực
của
cán bộ quản
lý rủi
ro tín dụng;
(iii) Xây dựng
một hệ
thống quản lý, cập nhật thông tin hiệu quả để duy trì một quá trình đo lường,
theo dõi tín dụng
thích hợp,
đáp
ứng
yêu cầu
thẩm
định
và quản lý rủi ro tín
dụng. Lựa chọn mô hình quản trị tín dụng tập trung hay phân tán phụ thuộc vào
chính sách, chiến lược, thị trường mục tiêu, quản lý danh mục tín dụng, quy mô, mức độ phức tạp trong các giao dịch. Nói cách khác mô hình Bộ máy tổ chức và quản trị tín dụng xây dựng căn cứ trên khả năng, điều kiện cụ thể của từng ngân hàng.
Như vậy, công tác tổ chức và quản trị điều hành tín dụng không chỉ tác động đến CLTD mà còn tác động đến mọi hoạt động của NH. Một NH có cơ
cấu tổ chức được sắp xếp khoa học, sự phân công công việc một cách cụ thể,
rõ ràng có sự gắn kết giữa các bộ phận thì CLTD càng được nâng cao hơn
Ba là: Công nghệ ngân hàng
Lĩnh vực tài chính – ngân hàng là ngành có mức độ ứng dụng công nghệ thông tin cao. Hệ thống công nghệ thông tin hiện đại sẽ đáp ứng yêu cầu về độ chính xác, khối lượng giao dịch của khách hàng, tìm kiếm thông tin khách hàng, giúp NH ra các quyết định và xử lý khoản vay…Với các trang thiết bị máy móc, phương tiện kĩ thuật, công nghệ thông tin hiện đại sẽ tạo điều kiện đơn giản hóa các thủ tục, rút ngắn thời gian giao dịch, thông tin thu thập nhanh và chính xác hơn, tiết kiệm chi phí,... giúp ngân hàng kịp thời nắm bắt những thông tin, diễn biến trên thị trường, dự báo về khả năng phát triển kinh tế xã hội và hoạt động tín dụng nhằm đưa ra các quyết sách phù hợp với tình hình thực tế và đem lại sự tiện ích cho khách hàng.
Bốn là: Thông tin tín dụng
Thông tin tín dụng cần có về KH để NHTM xem xét, quyết định cho vay và giám sát khoản vay bao gồm: thông tin về hồ sơ pháp lý của KH, thông tin về tình hình tài chính, về quan hệ tín dụng của KH; về xếp loại tín dụng của KH
từ các cơ quan xếp hạng bên ngoài và kết
quả xếp
loại
tín dụng
nội
bộ của
NHTM; thông tin liên quan đến
dự án xin vay vốn của
KH; thông tin về môi
trường kinh doanh có liên quan đến ngành nghề, lĩnh vực hoạt động của KH vay
vốn, thông tin kinh tế, thị trường, xu thế phát triển, tiềm năng của ngành.. Thông
tin tín dụng có thể lấy được từ các nguồn sẵn có từ ngân hàng (hồ sơ vay vốn, thông tin giữa các tổ chức tín dụng, phân tích của các cán bộ tín dụng,... ), từ các