nguồn của
khách hàng (theo chế độ báo cáo định
kỳ,
các dự án sản
xuất
kinh
doanh), từ trung tâm tín dụng (CIC) của NHNN. Số lượng và chất lượng thông tin
thu nhận được có liên quan đến việc cho vay, theo dõi và quản lý tài khoản cho
vay. Vì vậy, thông tin càng đầy đủ, nhanh nhậy, chính xác và toàn diện thì khả
năng phòng ngừa rủi dụng ngày càng cao.
Có thể bạn quan tâm!
- Quy Trình Cho Vay Cơ Bản Của Các Nhtm Việt Nam Ồt G S
- Nhóm Chỉ Tiêu Thể Hiện Khả Năng Sinh Lời Từ Hoạt Động Tín Dụng
- Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Chất Lượng Tín Dụng Của Ngân Hàng Thương Mại
- Ý Nghĩa Của Việc Nâng Cao Chất Lượng Tín Dụng Của Ngân Hàng Thương Mại
- Bài Học Rút Ra Trong Công Tác Nâng Cao Chất Lượng Tín Dụng Đối Với Các Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Việt Nam
- Số Điểm Giao Dịch Của Các Nhtmcp Việt Nam Tính Đến
Xem toàn bộ 254 trang tài liệu này.
ro trong hoạt động kinh doanh ngày càng lớn, chất lượng tín
Năm là: Quản lý rủi ro tín dụng
Quản lý rủi ro tín dụng là quá trình các Ngân hàng tiến hành hoạch định, tổ chức triển khai thực hiện và giám sát kiểm tra toàn bộ hoạt động cấp tín dụng, nhằm tối đa hóa lợi nhuận của ngân hàng với mức rủi ro có thể chấp nhận được
Rủi ro tín dụng là khả năng có thể xảy ra khi một khách hàng không đáp
ứng được nghĩa vụ trả nợ theo những điều khoản đã thoả thuận. Rủi ro tín dụng
do nhiều nguyên nhân nhưng khái quát lại, nguyên nhân chính là việc thực hiện
quy trình quản
lý tín dụng của ngân hàng thương mại. Rủi
ro tín dụng có mối
quan hệ chặt chẽ với chất lượng tín dụng bởi nó ảnh hưởng trực tiếp tới quá
trình chu chuyển của vốn tín dụng, những vấn đề an toàn trong kinh doanh và từ
đó ảnh hưởng tới khả năng đáp ứng kịp thời yêu cầu của khách hàng
Căn cứ vào quá trình chu chuyển vốn tín dụng, quản lý rủi ro tín dụng gồm
3 giai đoạn:
Thứ nhất là quá trình thẩm
định:
đây là giai đoạn
khởi
đầu nhưng
có ý
nghĩa quan trọng đối với việc đảm bảo an toàn của vốn vay, mức độ an toàn của giai đoạn này phụ thuộc nhiều vào việc xem xét, lập hồ sơ vay vốn, đánh giá tài
sản thế chấp, tình trạng khách hàng để đánh giá khả năng hoàn trả của khách
hàng và quyết định cho vay. Việc thẩm định thường tập trung vào khả năng tài
chính của khách hàng. Đối với các khoản vay có tài sản thế chấp, việc thẩm định
cần chú trọng trong việc đánh gía tài sản, xác định mức độ hoàn hảo của tài sản thế chấp cũng như mức độ rủi ro của tài sản này
Thứ hai là giám sát khách hàng: theo dõi rủi ro có thể xảy ra đối với các
khoản tiền vay. Yêu cầu của giai đoạn này là cán bộ tín dụng phải theo dõi, giám
sát chặt chẽ quá trình sử dụng tiền vay của khách hàng, phát hiện và xử lý kịp
thời những khoản nợ có vấn đề, những khoản nợ có nhiều khả năng không thu
hồi đựoc. Đây là biện pháp hữu hiệu để đảm bảo an toàn vốn vay.
Thứ ba là thu hồi nợ: đây là điều kiện để đảm bảo an toàn cho hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại. Việc thu hồi nợ có thể diễn ra theo đúng các
kỳ hạn nợ đã quy định, cũng có thể thu trước hạn nếu các khoản nợ phát hiện có
vấn đề, nhiều khả năng đưa đến tổn thất, gây mất vốn cho ngân hàng. Các ngân hàng cần theo dõi, kiểm tra thường xuyên để xử lý có hiệu quả các khoản nợ khi phát hiện có vấn đề.
Lượng định rủi ro tín dụng trong quá trình cho vay nhằm giúp các tổ chức tín dụng dự đoán rủi ro ngay từ khi thẩm định đơn xin vay. Mức độ chính xác của
việc lượng định rủi ro đối với các khoản nợ là căn cứ để đánh giá chất lượng tín
dụng và là cơ sở cho việc trích lập, đánh giá tình hình sử dụng quỹ dự phòng tổn thất của ngân hàng thương mại.
Sáu là: Cán bộ tín dụng
Nhân sự là trung tâm trong mọi
hoạt
động
kinh doanh của
ngân hàng
thương mại, đặc
biệt
là hoạt
động
tín dụng.
Hệ thống
ngân hàng ngày càng
hiện
đại,
nghiệp
vụ tín dụng ngày càng phức tạp đòi hỏi nhân sự có trình độ,
năng lực, khả năng tư duy, độ nhạy cảm và đạo đức nghề nghiệp, đây là những
nhân tố quyết định đến hiệu quả nâng cao CLTD. Sự bố trí nhân sự thiếu hợp
lý về khối
lượng
quản
lý khách hàng, năng lực
quản lý từng
khoản
tín dụng,
danh mục tín dụng đều dẫn tới suy giảm chất lượng tín dụng của NHTM
Nâng cao chất
lượng
nhân sự để đội
ngũ nhân sự đáp
ứng
đủ năng lực
điều
hành, thực
hiện
quy trình, chính sách theo thông lệ quốc tế và chuẩn mực
Basel 2. Nguồn nhân lực
phải
chuyên nghiệp, thông qua quá trình học
hỏi,
đào
tạo lâu dài. Xây dựng các tiêu chí đánh giá năng lực cán bộ ngân hàng nói chung
và cán bộ trong hoạt động tín dụng nói riêng. Giám đốc phụ trách CNTT, phụ
trách dữ liệu phải được đào tạo chuẩn mực để có thể bao quát, kiểm soát tình
hình chung, đề ra quy định trong ứng dụng và tuân thủ công nghệ đối với toàn
bộ nhân viên của ngân hàng. Việc đào tạo cho nhân viên của các phòng, ban, bộ
phận trong ngân hàng nhất thiết nên tiến hành hàng năm. Tất cả nhân viên trong ngân hàng đều phải biết Basel 2 là gì, vận hành ra sao. Việc truyền thông Basel
2 cũng như đào tạo, cần có biện pháp từ trên xuống dưới, xây dựng tài liệu cụ thể để chia sẻ kiến thức giữa các phòng, ban, đơn vị, tuân theo nguyên tắc cốt lõi Văn hóa rủi ro – Quản lý rủi ro là trách nhiệm của cả hệ thống ngân hàng.
Con người là một yếu tố hết sức quan trọng quyết định đến sự thành bại trong quản lý vốn tín dụng cũng như trong hoạt động của ngân hàng. Xã hội ngày
càng phát triển đòi hỏi chất lượng nhân sự ngày càng cao để đối phó kịp thời, có
hiệu quả với các tình huống khác nhau của hoạt động tín dụng. Việc tuyển chọn
nhân sự có đạo đức nghề nghiệp tốt và chuyên môn giỏi sẽ giúp cho ngân hàng
ngăn ngừa được những sai phạm có thể xảy ra khi thực hiện một kín của một khoản tín dụng .
chu trình khép
Chất lượng nhân sự ở đây không chỉ là vấn đề về trình độ chuyên môn nghiệp vụ, tác phong làm việc, tinh thần trách nhiệm, kỷ luật lao động mà còn bao gồm cả lương tâm, đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ cán bộ ngân hàng. Cán bộ tín dụng là người trực tiếp thực hiện nghiệp vụ tín dụng, là cầu n ối giữa
ngân hàng và khách hàng. Qua đó cho thấy cán bộ tín dụng
có tầm quan trọng
rất
lớn
đối
với
hoạt động
kinh doanh của
ngân hàng nói chung và hoạt
động
cấp tín dụng nói riêng, do đó cán bộ tín dụng
phải
có trình độ,
khả năng tư
vấn hỗ trợ khách hàng, có năng lực và tâm huyết với nghề. Nếu cán bộ tín dụng
làm việc
quá nguyên tắc
hay cứng
nhắc, không phục
vụ tốt
khách hàng sẽ
không thu hút được
khách hàng đến
với
ngân hàng, vấn
đề là các cán bộ tín
dụng phải biết áp dụng linh hoạt những quy trình chính sách tín dụng một cách
có hiệu quả nhất sao cho có thể thu hút được nhiều cạnh tranh cho ngân hàng.
Bảy là: Kiểm soát nội bộ
khách hàng, tăng khả năng
Theo
Ủy ban Basel, mỗi
bộ phận
chức
năng trong bộ phận kiểm tra,
kiểm soát tín dụng đều đảm nhận vai trò kiểm soát ở những khía cạnh khác
nhau. Vì vậy,
để kiểm
soát tín dụng
khách quan và hiệu
quả,
việc
tổ chức
bộ máy quản trị cần tránh sự trùng lặp về chức năng, xung đột lợi ích giữa các
bộ phận kiểm soát. Thông lệ hiện nay, để đảm bảo các nguyên tắc của Basel,
các NHTM thực
hiện
tổ chức
bộ máy kiểm tra, kiểm soát
TD theo “3 vòng
kiểm soát” như hình dưới đây:
HỘI ĐỒNG
BANQUẢN ĐIỀTURỊ
VònHgÀNHVòn
Vòn
Kg IỂ
thứ
QU
g
QU
Mthứ
TbNaOÁ
KHÁ CHHỆ
nAhNất
tẢhứN
hRai
LỦÝI
ỘI
NB
Ộ
Hình 1.3: Mô hình “3 vòng kiểm soát” rủi ro tínHdÀụNng củaRNHTM
G ( N g uOồ n :
[ 6 6 ] )
Vòng thứ nhất
(quan hệ khách hàng): bao gồm
các bộ phận
trực
tiếp
kinh doanh, bán hàng. Vòng này thực
hiện
chức
năng xác định,
đánh giá,
ngăn ngừa,
theo dõi và báo cáo rủi
ro phát sinh trong hoạt
động
tín dụng.
Trên cơ sở tự đánh giá TD n h ư :
nhận diện, xác định, đánh giá rủi
ro đầy đủ
trước
khi cấp
tín dụng,
bộ phận
quan hệ khách hàng lựa
chọn
khách hàng và
chấp
thuận
cấp
tín dụng
trong giới
hạn
của
ngân hàng. Đây là vòng đầu
tiên
và là vòng trực tiếp tiếp nhận kiểm soát TD thông qua hoạt động cấp tín dụng.
Vòng này đảm bảo môi trường kiểm soát rủi ro được thiết
lập
ngay trong giao
dịch
tín dụng
hàng ngày của
ngân hàng. Theo số liệu
thống
kê tại
NHTM ở
các quốc gia phát triển, Vòng quan hệ khách hàng có thể kiểm soát và hạn chế đến 80% RRTD của một ngân hàng.
Vòng thứ hai (quản lý rủi ro): Để thực
hiện
chức
năng quản
lý rủi
ro,
vòng thứ hai thực
hiện
các nhiệm vụ cơ bản: (1) thiết lập chiến lược quản trị
rủi ro, khẩu vị rủi ro, chính sách quản
trị RRTD; (2) xây dựng,
ban hành các
qui trình, qui chế về hoạt
động
tín dụng
và quản
lý rủi
ro tín dụng;
(3) xây
dựng
hệ thống
thông tin, hệ thống
các công cụ,
biện
pháp để nhận
diện, đo
lường, kiểm soát, giám sát và báo cáo RRTD ở cấp độ từng khoản tín dụng và
danh mục
tín dụng;
(4) đánh giá và kiểm
soát hiệu
quả hoạt
động
vòng thứ
nhất. Theo yêu cầu của Ủy ban Basel, hoạt động của vòng thứ hai phải độc lập
với
vòng thứ nhất.
Tuy nhiên, Bộ phận
quản
lý RRTD có vai trò quyết
định
khả năng kiểm soát RRTD của bộ phận quan hệ khách hàng. Bởi vì vòng thứ
hai xác định
đúng chiến lược, khẩu vị RRTD, thiết lập
hệ thống qui chế, qui
trình phù hợp là cơ sở vững chắc để vòng thứ nhất kiểm soát TD hiệu quả.
Vòng thứ ba (Kiểm toán nội bộ):
thực
hiện
đánh giá độc
lập
hiệu
quả
của
vòng thứ nhất,
vòng thứ hai và hệ thống
kiểm tra KSNB
của
ngân hàng.
Như vậy vòng kiểm soát thứ 3 sẽ là động lực để vòng thứ nhất và thứ hai hiệu quả hơn, giảm thiểu các sai phạm, gian lận và nâng cao ý thức trách nhiệm mỗi
cá nhân khi hiện
chức
năng, nhiệm
vụ của
mình. Thông thường
vòng thứ 3
trực
thuộc
HĐQT để đảm
bảo
tính độc
lập,
đồng
thời
giúp cho HĐQT, Ban
Kiểm soát có thể nắm bắt thông tin xuyên suốt hoạt động của các bộ phận kinh doanh,
Kiểm tra, kiểm soát nội bộ giúp cho các lãnh đạo có được các thông tin về tình hình cho vay của các cán bộ tín dụng có phù hợp với chủ trương, đường lối, chính sách mà ngân hàng đưa ra hay không. Hoạt động này gồm những việc như: kiểm tra các thủ tục về thẩm quyền điều hành, quản lý, giám sát các khoản tiền vay, thủ tục, hồ sơ xin vay vốn,... nhằm mục đích phát hiện ra các sai phạm trong quá trình cho vay, từ đó giúp ban lãnh đạo đưa ra các quyết định để hạn chế rủi ro tín dụng. Hệ thống kiểm soát nội bộ hoạt động tốt sẽ tạo điều kiện cho ngân hàng nâng cao chất lượng tín dụng
1.2.3.2 Nhóm nhân tố khách quan
Một là: Nhân tố từ phía khách hàng
Bất kỳ khách hàng nào muốn vay được vốn ngân hàng thì đều phải đáp ứng được các điều kiện, tiêu chuẩn tín dụng mà ngân hàng cho vay đưa ra nhằm đảm bảo an toàn, ngăn ngừa và phòng tránh những rủi ro khi cho vay. Chỉ những khách hàng đáp ứng đầy đủ những yêu cầu của ngân hàng thì sẽ được ngân hàng cho vay, như vậy khả năng đáp ứng yêu cầu của khách hàng ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng tín dụng, bao gồm:
Năng lực thị trường của khách hàng
Năng lực này thể hiện ở thị phần sản phẩm, chất lượng sản phẩm mà khách hàng đang cung cấp trên thị trường, thương hiệu, tương lai về sản phẩm,... năng lực này càng cao thì nhu cầu vốn đầu tư của khách hàng càng lớn và đây là một trong những cơ sở để ngân hàng xem xét khi cho vay.
Năng lực sản xuất của khách hàng
Năng lực này thể hiện rõ ở toàn bộ giá trị tài sản mà khách hàng đưa ra để sản xuất kinh doanh, biểu hiện cụ thể là các công nghệ mà khách hàng đưa vào sản xuất hiện đại hay lạc hậu, hoạt động đầu tư của doanh nghiệp có hiệu quả hay không. Năng lực sản xuất là cơ sở để ngân hàng tính toán đến tính khả thi, nhu cầu vốn của dự án.
Năng lực tài chính của khách hàng
Năng lực này thể hiện ở cơ cấu vốn, khả năng tự tài trợ, các chỉ tiêu tài chính của khách hàng. Nếu khách hàng vay vốn có tiềm lực tài chính mạnh, khả năng thanh toán cao, các hoạt động sản xuất kinh doanh mang lại lợi nhuận cao và ổn định,... thì điều đó có nghĩa là doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả và có khả năng trả nợ ngân hàng đủ và đúng hạn, ngân hàng sẽ an tâm hơn trong việc cho khách hàng đó vay vốn. Mỗi khách hàng như vậy sẽ làm cho chất lượng tín dụng của ngân hàng không ngừng được củng cố và tăng cường.
Năng lực quản lý của khách hàng
Khách hàng vay vốn phải có năng lực quản lý tốt. Điều này thể hiện ở khả năng tổ chức nhân sự, sắp xếp các phòng ban, tổ chức hệ thống hạch toán kế toán, quản lý tài chính vừa đúng theo quy định của Nhà nước, lại đảm bảo tính hiệu quả của hệ thống mà khách hàng đang quản lý. Sự hoạt động của hệ thống kế toán, tài chính, thống kê giúp cho ngân hàng trong việc cung cấp thông tin về tình hình hoạt động kinh doanh của khách hàng, từ đó làm cơ sở cho ngân hàng ra quyết định cho vay kịp thời và hiệu quả.
Quyền sở hữu tài sản và khả năng đáp ứng các biện pháp bảo đảm
Như chúng ta đều biết, hoạt động kinh doanh của khách hàng gắn liền với việc sở hữu một khối lượng tài sản nhất định, quyền sở hữu tài sản biểu hiện ở khả năng pháp lý của khách hàng được chiếm hữu, sử dụng và định đoạt khối tài sản đó. Giá trị, chất lượng và cơ cấu tài sản mà khách hàng sở hữu quyết định hoạt động sản xuất kinh doanh, đo lường năng lực tài chính và quyết định khối lượng tín dụng cần cung cấp. Quyền sở hữu tài sản gắn liền với năng lực của KH và khả năng sử dụng tài sản thuộc sở hữu của mình để thực hiện biện pháp đảm bảo tín dụng.
Tính khả thi của dự án / phương án
Khi khách hàng đã xây dựng được phương án sản xuất kinh doanh khả thi thì bản thân khách hàng cũng thấy được định hướng công việc của mình và nó sẽ càng đảm bảo an toàn hơn cả cho khách hàng khi được ngân hàng đánh giá, tư vấn. Phương án sản xuất kinh doanh khả thi là phương án phải mang tính thị trường, không trái pháp luật, có khả năng được cung cấp đầu ra và đầu vào, có hiệu quả kinh tế. Phương án sản xuất kinh doanh hiệu quả sẽ đảm bảo vững chắc nguồn trả nợ gốc và lãi cho ngân hàng.
Tư cách đạo đức của người vay
Chỉ tiêu này rất khó nắm bắt và thẩm định nhưng trước khi cho vay buộc ngân hàng phải xem xét một cách kỹ lưỡng vì điều này liên quan tới việc khách
hàng trả nợ sau này. Khách hàng yếu về tư cách đạo đức sẽ dẫn đến chây ỳ
trong việc trả nợ, rất khó và tốn nhiều chi phí cho NH trong việc xử lý các khoản nợ.
Hai là: Môi trường kinh tế
Để ngân hàng có thể huy động được nhiều vốn, mở rộng hoạt động cho vay phục vụ cho việc phát triển kinh tế thì phải có một nền kinh tế phát triển ổn định, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động tín dụng của ngân hàng. Khi nền kinh tế phát triển ổn định, lạm phát vừa phải, không có khủng hoảng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Như vậy khả năng vay mượn và trả nợ vay không bị biến động lớn. Ngân hàng không phải chịu những thiệt hại do mất giá của đồng tiền, tránh được chất lượng tín dụng giảm thấp.
Chu kỳ kinh tế có tác động không nhỏ đến hoạt động tín dụng, nếu thời kỳ kinh tế hưng thịnh, sản xuất kinh doanh được mở rộng dẫn đến nhu cầu vốn tăng, hiệu quả tín dụng cũng tăng lên, giảm bớt rủi ro tín dụng nhưng cũng không loại trừ trường hợp do chạy đua trong sản xuất kinh doanh, nạn đầu cơ tích trữ làm cho nhu cầu tín dụng tăng lên quá cao và có nhiều TCTD thực hiện. Những khoản này cũng có thể khó được hoàn trả nếu sự phát triển sản xuất kinh doanh không có kế hoạch hoặc phát triển sản xuất kinh doanh vượt quá quy mô của khách hàng cả về vốn cũng như khả năng quản lý. Mặt khác, trong thời kỳ nền
kinh tế suy thoái, sản xuất trì trệ, kinh doanh bị thua lỗ, nhu cầu vốn tín dụng giảm và nếu vốn tín dụng được thực hiện thì cũng khó có thể sử dụng hiệu quả. Trong thời kỳ này, tình trạng thiểu phát kéo dài sản phẩm sản xuất ra vượt quá nhu cầu của nền kinh tế cũng như nguyên nhân dẫn đến đình trệ trong sản xuất kinh doanh do sản lượng sản phẩm tồn kho khó tiêu thụ, hoạt động tín dụng gặp nhiều khó khăn. Hơn nữa do cạnh tranh trong lĩnh vực tiền tệ sẽ dẫn đến việc các ngân hàng nới lỏng các điều kiện cho vay để thu hút khách hàng. Đây cũng là nguyên nhân ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng.
Ba là: Môi trường xã hội
Khách hàng và ngân hàng thực hiện quan hệ tín dụng dựa trên cơ sở tín nhiệm giữa hai bên. Vì vậy, chất lượng tín dụng phụ thuộc vào ba nhân tố: khách hàng, khả năng của ngân hàng và sự tin tưởng lẫn nhau. Tín nhiệm là cầu nối mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng, nó là tiền đề để tạo điều kiện không ngừng cải tiến chất lượng tín dụng. Khách hàng với tư cách vừa là người cung vốn, vừa là người cầu về vốn. Khách hàng mong muốn ở ngân hàng một mức lãi suất hợp lý, thủ tục đơn giản, nhanh gọn. Ngân hàng vừa là người đại diện cho bên huy động vốn, vừa là người đại diện cho bên cung cấp tín dụng. Mối quan hệ xã hội thể hiện cụ thể giữa ngân hàng và khách hàng là nhân tố không kém phần quan trọng quyết định đến quy mô và hoạt động của ngân hàng. Sự thành công hay thất bại của một ngân hàng phụ thuộc vào việc xây dựng chính sách tín dụng. Một chính sách tín dụng đúng đắn sẽ thu hút được nhiều khách hàng, đảm bảo khả năng sinh lời từ hoạt động tín dụng trên cơ sở phân tán rủi ro, tuân thủ pháp luật, đường lối chính sách của Nhà nước và đảm bảo công bằng
Ngoài những nhân tố trên, còn có những nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng như: đạo đức xã hội, trình độ dân trí có liên quan tới rủi ro tín dụng. Bên cạnh đó sự biến động của tình hình kinh tế, chính trị xã hội ở nước ngoài cũng có ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng.
Bốn là: Môi trường pháp lý
Pháp luật là bộ phận không thể thiếu của kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Hành lang pháp lý không phù hợp với yêu cầu phát triển của nền kinh tế thì mọi hoạt động trong nền kinh tế đó không thể tiến hành trôi chảy