cấu dư nợ
cho vay cho biết mức độ
tập trung tín dụng vào một kỳ
hạn, đối
tượng cho vay, từ đó thể hiện mức độ phân bổ vốn vào NHTM
1.2.2.2 Nhóm chỉ tiêu thể hiện khả năng sinh lời từ hoạt động tín dụng
a. Tỷ lệ thu nhập lãi cận biên (Net Interest Margin – NIM)
Tỷ lệ thu nhập lãi ròng
=
cận biên (NIM)
Có thể bạn quan tâm!
- Phương Pháp So Sánh, Phân Tích, Tổng Hợp, Suy Luận Logic
- Hoạt Động Tín Dụng Của Ngân Hàng Thương Mại
- Quy Trình Cho Vay Cơ Bản Của Các Nhtm Việt Nam Ồt G S
- Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Chất Lượng Tín Dụng Của Ngân Hàng Thương Mại
- Mô Hình “3 Vòng Kiểm Soát” Rủi Ro Tínhdàụnng Củarnhtm
- Ý Nghĩa Của Việc Nâng Cao Chất Lượng Tín Dụng Của Ngân Hàng Thương Mại
Xem toàn bộ 254 trang tài liệu này.
Trong đó:
Thu nhập lãi thuần Tổng tài sản sinh lời
Thu nhập lãi thuần: Thu nhập lãi Chi phí lãi
Tài sản sinh lời = Tiền gửi tại NHNN + Tiền gửi lại các TCTC khác + Chứng khoán đầu tư + Cho vay khách hàng
Tỷ lệ thu nhập lãi ròng cận biên (NIM) đo lường mức chênh lệch giữa thu từ lãi và chi phí trả lãi mà ngân hàng có thể đạt được thông qua hoạt động kiểm
soát chặt chẽ tài sản sinh lời và theo đuổi nguồn vốn có chi phí thấp. NIM đo
lường khả năng sinh lời từ hoạt động cho vay, hoạt động tài sản có sinh lời lớn nhất của NHTM. Tỷ lệ này có ý nghĩa là: khi NH tăng thêm 1 đơn vị tài sản sinh lời thì thu nhập lãi thuần tăng thêm bao nhiêu đơn vị. Qua chỉ tiêu này có thể điều chỉnh, kiểm soát chặt chẽ các loại tài sản sinh lời, tìm kiếm những nguồn vốn có chi phí thấp, đồng thời có chính sách tăng giảm lãi suất 1 cách hợp lý. Theo như đánh giá của Standard & Poor thì tỷ lệ NIM dưới 3% được xem là thấp trong khi NIM lớn hơn 5% thì được xem là quá cao. Ngoài ra NIM có xu hướng cao ở các ngân hàng bán lẻ quy mô nhỏ, các ngân hàng thẻ tín dụng và các tổ chức cho vay hơn là NIM của các ngân hàng bán buôn, các ngân hàng đa quốc gia hay các tổ chức cho vay cầm cố (Allen và Gale, 1995)[41]. Tỷ lệ NIM tăng cho thấy dấu hiệu của quản trị tốt tài sản Nợ Có, trong khi NIM có xu hướng thấp và bị thu hẹp thì cho thấy lợi nhuận ngân hàng đang bị co hẹp lại.
b. Tỷ suất sinh lời trên tổng tài sản (ROA)
Lợi nhuận sau thuế
ROA (%) =x 100
Tổng tài sản
Tỷ suất sinh lời trên tổng tài sản (ROA) là chỉ số tài chính dùng để đo
lường mối quan hệ của lợi nhuận ròng trên tổng tài sản của ngân hàng. ROA cho biết cứ mỗi đồng tài sản tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế. Chỉ tiêu này
đánh giá hiệu quả trong quản lý doanh thu và chi phí, đồng thời phản ánh khả năng chuyển đổi tài sản của ngân hàng thành lợi nhuận ròng. ROA thể hiện khả năng của NHTM trong việc sử dụng tài sản của mình để tạo lợi nhuận. Nhìn chung, ROA càng cao thể hiện khả năng sử dụng tài sản của NHTM càng tốt. Tuy nhiên, không chỉ kinh doanh vì lợi nhuận, các NHTM còn phải đảm bảo yêu cầu về tính an toàn trong hoạt động. Do vậy, đôi khi ROA quá cao cũng có thể đem lại nguy cơ rủi ro tín dụng gia tăng cho NHTM khi ngân hàng tập trung quá nhiều tài sản vào những lĩnh vực có tỷ suất sinh lời cao nhưng rủi ro lại lớn.
b. Tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu (ROE)
Lợi nhuận sau thuế
ROE (%) =
Vốn chủ sở hữu
x 100
Tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu (ROE) là chỉ số tài chính dùng để đo lường mối quan hệ giữa lợi nhuận ròng trên vốn chủ sở hữu của NHTM. ROE cho thấy mỗi đồng vốn của chủ sở hữu bỏ ra sẽ mang lại bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế. ROE đo lường khả năng sinh lời trên mỗi đồng vốn của cổ đông thường. ROE càng cao chứng tỏ ngân hàng sử dụng càng hiệu quả đồng vốn của cổ đông, và cũng chứng tỏ là ngân hàng đã cân đối một cách hài hòa giữa vốn chủ sở hữu và vốn vay để khai thác lợi thế cạnh tranh trong quá trình huy động vốn và mở rộng quy mô. Cho nên ROE càng cao thì càng hấp dẫn đối với các nhà đầu tư, đối với các NHTM đây là chỉ tiêu hết sức quan trọng trong việc thuyết phục các nhà đầu tư trở thành các cổ đông của ngân hàng. Nhìn chung, tỷ lệ này càng cao thể hiện khả năng sử dụng vốn của ngân hàng có hiệu quả và khi đó ngân hàng dễ dàng tăng quy mô vốn chủ sở hữu để mở rộng cho vay và đầu tư của mình.
1.2.2.3 Nhóm chỉ tiêu phản ánh mức độ an toàn về hoạt động tín dụng của NHTM
a. Tỷ lệ đảm bảo an toàn vốn (Capital Adequacy Ratio CAR)
Hệ số an toàn vốn là một thước đo độ an toàn vốn của ngân hàng, thường được dùng để bảo vệ những người gửi tiền trước rủi ro của ngân hàng và tăng tính ổn định cũng như hiệu quả của hệ thống. Qua hệ số này có thể xác định
được khả năng của ngân hàng thanh toán các khoản nợ có thời hạn và đối mặt với các loại rủi ro khác như rủi ro tín dụng, rủi ro vận hành. Hay nói cách khác,
khi ngân hàng đảm bảo được hệ số
này tức là nó đã tự
tạo ra một tấm đệm
chống lại những cú sốc về tài chính, vừa tự bảo vệ mình, vừa bảo vệ những người gửi tiền. Đó chính là lý do các quốc gia trên thế giới đều ban hành các quy định về việc chấp hành tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu đối với các NHTM, coi đó là một tiêu chí thể hiện sức mạnh tài chính của một ngân hàng. Theo hiệp ước về vốn của Basel 2 các NHTM phải duy trì hệ số an toàn vốn cụ thể là:
Tổng vốn (vốn loại 1 và vốn loại 2)
Tỷ lệ vốn tối
=
thiểu CAR
RWA rủi ro tín dụng+(K rủi ro hoạt động*12,5)+(K rủi ro thị trường*12,5)
>= 8%
Trong đó:
RWA rủi ro tín dụng = Tài sản x Hệ số rủi ro (Có đề dụng).
K: Vốn yêu cầu tối thiểu đối với từng loại rủi ro
b. Chỉ tiêu Nợ xấu và tỷ lệ nợ xấu
Chỉ tiêu Nợ xấu
cập đến xếp hạng tín
Nhóm chuyên gia tư vấn (AEG) của Liên Hợp quốc cho rằng định nghĩa
nợ xấu không nên mang tính chất mô tả mà chỉ nên được sử dụng như hướng
dẫn
cho các ngân hàng (AEG, 2004). AEG thống
nhất
định
nghĩa sau: “Về cơ
bản
một
khoản
nợ được coi là nợ xấu khi quá hạn trả lãi và/hoặc gốc trên 90
ngày; hoặc các khoản lãi chưa trả từ 90 ngày trở lên đã được nhập gốc, tái cấp
vốn hoặc chậm trả theo thoả thuận; hoặc các khoản phải thanh toán đã thanh
toán dưới 90 ngày nhưng có lý do chắc chắn để nghi ngờ về khả năng khoản vay sẽ được thanh toán đầy đủ”. Nói cách khác, nợ xấu được xác định dựa trên hai yếu tố: (i) quá hạn trên 90 ngày; và (ii) nghi ngờ về khả năng trả nợ.
Thực
tế,
khái niệm
nợ xấu
không hoàn toàn đồng
nhất
ở các quốc
gia
khác nhau. Hiện nay, ngoài quan niệm nợ xấu của các quốc gia, một số tổ chức quốc tế cũng đã đề cập đến khái niệm này. Có thể kể đến một số trường hợp điển hình:
Quan niệm về nợ xấu của Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) được đề cập trong
tài liệu
“Hướng
dẫn
tính các chỉ số lành mạnh
tài chính”: “Nợ xấu
là những
khoản nợ có lãi hoặc /và gốc quá hạn 90 ngày hoặc trên 90 ngày, các khoản lãi
quá hạn 90 ngày hoặc trên 90 ngày được vốn hóa, tái tài trợ hoặc hoãn trả nợ
theo thỏa thuận, hoặc quá hạn dưới 90 ngày nhưng có các dấu hiệu khác cho thấy
người vay không có khả năng thanh toán đầy đủ về gốc và lãi”.
Khái niệm nợ xấu theo quan điểm của IMF không nhất thiết đồng nhất với khái niệm nợ bị giảm giá trị trong chuẩn mực kế toán quốc tế IAS 39 và Uỷ Ban Basel về Giám sát ngân hàng. Khi khoản vay bị giảm giá trị, nó sẽ được đưa vào diện không được cộng dồn, cụ thể: nguồn thu nhập từ lãi cho vay của các khoản vay này sẽ không được cộng dồn trên báo cáo thu nhập của ngân hàng. Điểm cần lưu ý là có những tình huống kinh tế có thể dẫn tới việc khoản vay có thể được
xếp vào tình trạng không được cộng dồn, ví dụ như khi suy thoái kinh tế hoặc khi
công nghệ thông tin có sự thay đổi mạnh. Thêm vào đó, trong định nghĩa của IMF,
phần thứ hai của nợ xấu sẽ không được một khoản nợ mới.
tính là nợ tốt kể cả khi thay thế nó bằng
Viện
Tài chính Quốc
tế (Institute of International Finance) đề xuất phân
loại nợ thành 5 nhóm bao gồm:
Nợ đủ tiêu chuẩn(Standard): là nợ có gốc
và lãi trong hạn,
không có dấu
hiệu khó khăn trong thanh toán nợ và dự báo có thể thanh toán gốc và lãi đúng hạn,
đầy đủ theo cam kết.
Nợ cần chú ý (Watch): Là nợ trong tình trạng nếu không có các biện pháp xử lý có thể tăng nguy cơ không thanh toán đầy đủ gốc và lãi. Vì vậy đây là khoản
nợ cần được chú ý hơn mức bình thường.
Nợ dưới tiêu chuẩn (Substandard): là khoản nợ nghi ngờ về khả năng thanh
toán đầy đủ gốc, lãi theo cam kết,
hoặc
gốc hoặc/ và lãi quá hạn trên 90 ngày,
hoặc tài sản đảm bảo giảm giá trị dẫn đến nguy cơ giảm giá trị khoản vay nếu
không xử lý kịp thời.
Nợ nghi ngờ (Doubtful): là nợ được xác định không thể thu hồi đầy đủ gốc, lãi trong điều kiện hiện hành hoặc lãi hoặc /và gốc quá hạn trên 180 ngày. Nợ
nhóm này đã bị giảm giá trị nhưng chưa mất vốn hoàn toàn vì còn có những yếu
tố được xác định có thể tác động cải thiện chất lượng nợ.
gốc
Nợ mất vốn (Loss): là nợ được đánh giá không có khả năng thu hồi hoặc hoặc/và lãi quá hạn trên 1 năm.
Nợ xấu bao gồm nợ 3 nhóm cuối.
Tại
Việt
Nam, khái niệm
nợ xấu
được
đề cập
trong Điều
10, điều
11,
Thông tư số 02/2013/ TT NHNN ngày 21/1/2013 của NHNN Việt Nam Quy định
việc phân loại tài sản có, mức trích, phương pháp trích lập dự phòng rủi ro và việc
sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài (từ đây gọi tắt là Thông tư 02). Cụ thể:
“Nợ xấu” là các khoản
nợ thuộc
các nhóm 3, 4 và 5 bao gồm
nợ dưới
tiêu chuẩn, nợ nghi ngờ, nợ có khả năng mất vốn qui định tại Điều 10 của Thông
tư 02. Tại Điều 10, các tổ chức tín dụng được yêu cầu phân loại nợ theo phương
pháp định lượng, khoản nợ xấu:
trong đó các khoản nợ xấu nhóm 3, nhóm 4, và nhóm 5 là các
Nợ nhóm 3 (nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm: (i) Nợ quá hạn từ 91 ngày đến
180 ngày; (ii) Nợ gia hạn
nợ lần
đầu;
(iii) Nợ được
miễn
hoặc
giảm
lãi do
khách hàng không đủ khả năng trả lãi đầy đủ theo hợp đồng tín dụng; (iv) Nợ thuộc một trong các trường hợp sau đây:
+ Nợ của
khách hàng hoặc
bên bảo
đảm
là tổ chức,
cá nhân thuộc
đối
tượng mà tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài không được cấp tín dụng theo quy định của pháp luật;
+ Nợ được bảo đảm bằng cổ phiếu của chính tổ chức tín dụng hoặc công ty con của tổ chức tín dụng hoặc tiền vay được sử dụng để góp vốn vào một tổ
chức tín dụng khác trên cơ sở tổ chức tín dụng cho vay nhận tài sản bảo đảm
bằng cổ phiếu của chính tổ chức tín dụng nhận vốn góp;
+ Nợ không có bảo đảm hoặc được cấp với điều kiện ưu đãi hoặc giá trị
vượt quá 5% vốn tự có của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khi
cấp cho khách hàng thuộc đối tượng bị hạn chế cấp tín dụng theo quy định của pháp luật;
+ Nợ cấp cho các công ty con, công ty liên kết của tổ chức tín dụng hoặc doanh nghiệp mà tổ chức tín dụng nắm quyền kiểm soát có giá trị vượt các tỷ lệ giới hạn theo quy định của pháp luật;
+ Nợ có giá trị vượt quá các giới hạn cấp tín dụng, trừ trường hợp được phép vượt giới hạn, theo quy định của pháp luật;
+ Nợ vi phạm các quy định của pháp luật về cấp tín dụng, quản lý ngoại hối và các tỷ lệ bảo đảm an toàn đối với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài;
+ Nợ vi phạm các quy định nội bộ về cấp tín dụng, quản lý tiền vay, chính sách dự phòng rủi ro của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
(v) Nợ đang thu hồi theo kết luận thanh tra.
ngày;
Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ)
bao gồm:
(i) Nợ quá hạn
từ 181 ngày đến
360
(ii) Nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn dưới 90 ngày theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu; (iii) Nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai;(iv) Khoản nợ quy định tại điểm c (iv) khoản 1 Điều này quá hạn từ 30 ngày đến 60 ngày kể từ ngày có quyết định thu hồi; (v) Nợ phải thu hồi theo kết luận
thanh tra nhưng đã quá thời hạn thu hồi đến 60 ngày mà vẫn chưa thu hồi được;
(vi) Nợ được phân loại vào nhóm 4 theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này.
Nhóm 5 (Nợ có khả năng mất
vốn)
bao gồm:
(i) Nợ quá hạn
trên 360
ngày; (ii) Nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn từ 90 ngày trở lên theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu; (iii) Nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần
thứ hai quá hạn theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần thứ hai; (iv) Nợ cơ cấu
lại thời hạn trả nợ lần thứ ba trở lên, kể cả chưa bị quá hạn hoặc đã quá hạn;
(v) Khoản
nợ quy định
tại
điểm
c (iv) khoản
1 Điều
này quá hạn
trên 60
ngày kể từ ngày có quyết
định
thu hồi;
(vi) Nợ phải thu hồi theo kết luận thanh tra nhưng đã quá thời hạn thu hồi trên 60 ngày mà vẫn chưa thu hồi được; (vii) Nợ của khách hàng là tổ chức tín
dụng được NHNN công bố đặt
vào tình trạng
kiểm
soát đặc
biệt,
chi nhánh
ngân hàng nước ngoài bị phong tỏa vốn và tài sản; (viii) Nợ được phân loại vào
nhóm 5 bao gồm các khoản nợ quá hạn từ 91 ngày trở lên; các khoản nợ cơ cấu
lại thời hạn trả nợ lần
đầu; các khoản
nợ được miễn hoặc giảm lãi do khách
hàng không đủ khả năng trả lãi đầy đủ theo hợp đồng tín dụng.
Tại Điều 11, các khoản nợ được phân loại theo phương pháp định tính và nợ xấu thuộc nhóm 3, 4, 5 bao gồm các khoản nợ dưới tiêu chuẩn (nhóm 3), bao gồm: Các khoản nợ được tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đánh giá là không có khả năng thu hồi nợ gốc và lãi khi đến hạn. Các khoản nợ này
được tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đánh giá là có khả năng
tổn
thất.
Các cam kết
ngoại
bảng được tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng
nước ngoài đánh giá là khách hàng không có khả năng thực hiện đầy đủ nghĩa vụ
theo cam kết. Nợ nhóm 4 (Nợ nghi ngờ) bao gồm: Các khoản nợ được tổ chức tín
dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đánh giá là có khả năng tổn thất cao.
Các cam kết ngoại bảng mà khả năng khách hàng không thực hiện cam kết
là rất cao. Nợ nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn) bao gồm: Các khoản nợ được
tổ chức
tín dụng,
chi nhánh ngân hàng nước
ngoài đánh giá là không còn khả
năng thu hồi, mất vốn bao gồm nợ được đánh giá là không có khả năng thu hồi
gốc và lãi đến khi đến hạn; nợ nghi ngờ (nhóm 4) bao gồm nợ được đánh giá là
có khả năng tổn thất cao; và nợ có khả năng mất vốn (nhóm 5), bao gồm nợ được đánh giá là không còn khả năng thu hồi, mất vốn.
Việc
NHNN ban hành Thông tư 02 nhằm
thay thế cho Quyết
định
493/2005/QĐNHNN ngày 22/4/2005 Quyết
định
về việc
ban hành quy định về
phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng (từ đây gọi là Quyết định 493) và một số văn bản khác. Thông tư 02 có thể khiến các TCTD phải công bố tỷ lệ nợ xấu cao hơn trước đây làm căn cứ cho việc trích lập dự phòng rủi ro tín dụng nhiều hơn.
Bởi văn bản này có một số tiêu chí khắt khe hơn trong việc phân loại nợ:
Thứ nhất, các khoản nợ bị gia hạn nợ lần đầu sẽ được đưa vào nợ nhóm 3
thuộc
nhóm nợ xấu,
thay vì nếu
gia hạn
nợ trong thời
hạn
vẫn
được
xếp
vào
nhóm 2 theo Quyết định 493.
Thứ hai, nợ được miễn hoặc giảm lãi do khách hàng không đủ khả năng trả lãi đầy đủ theo hợp đồng tín dụng cũng được đưa vào nhóm nợ xấu.
Thứ ba, ngoài các tiêu chí để phân loại nợ từ đặc tính khả năng trả nợ của khách hàng, điểm mới được đánh giá khá khắc nghiệt là xem xét hoạt động cấp tín dụng cho những đối tượng bị hạn chế cấp tín dụng hoặc cấp tín dụng có điều
kiện
theo Luật
các TCTD sửa
đổi
năm 2010. Nếu
như trước
đây trong hoạt
động
cấp
tín dụng
của
các NHTM, việc cấp tín dụng cho các tổ chức, cá nhân
thuộc đối tượng bị hạn chế tín dụng diễn ra rất thường xuyên thì nay được đưa
vào nhóm 3 “nợ dưới tiêu chuẩn” trong nhóm chỉ tiêu nợ xấu.
Thứ tư, hoạt động cho vay cầm cố cổ phiếu của các TCTD hoặc các công ty con của TCTD này để góp vốn vào TCTD khác trong hệ thống các NHTM cũng
là những khoản vay được liệt kê vào nhóm nợ xấu. Qui định này xếp các khoản
tín dụng theo kiểu đầu tư chéo lẫn nhau sẽ bị hạn chế khi liệt kê vào nhóm nợ
xấu mà qui định trước đây không đề cập đến.
Thứ năm, nợ cấp
cho các công ty con, công ty liên kết
mà TCTD đang
nắm
xấu
quyền kiểm soát không vượt quá tỷ lệ qui định.
Như vậy, những qui định chi tiết từ Thông tư 02 đã đưa việc phân loại nợ cao hơn so với qui định trước đây, không chỉ là thời gian chậm thanh toán mà
là mối quan hệ cấp tín dụng giữa TCTD với khách hàng và tài sản cấp tín dụng
được
đảm
bảo
bởi
cổ phiếu
của
TCTD. Bên cạnh
đó, những
khoản
cam kết
ngoại bảng cân đối kế toán như bảo lãnh thanh toán của các TCTD cũng được
xếp vào nhóm nợ xấu.
Như vậy,
nợ xấu
thường
được
xác định
căn cứ vào hai yếu
tố chính là
thời gian quá hạn hoặc khả năng trả nợ của khách hàng. Có thể hiểu một cách
khái quát nợ xấu
là những
khoản
nợ được
đánh giá không có khả năng thanh
toán đầy đủ, đúng hạn theo cam kết.
Chỉ tiêu Tỷ lệ nợ xấu
Tỷ lệ nợ xấu (%)
= Số dư nợ xấu
Tổng dư nợ
x 100 (%)
Chỉ tiêu này phản ánh trong 100 đồng dư nợ thì có bao nhiêu đồng là nợ xấu (hay trong tổng dư nợ thì có bao nhiêu phần trăm là bị rủi ro). Nợ xấu tăng làm tăng chi phí dự phòng rủi ro tín dụng, giảm lợi nhuận của ngân hàng. Ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu cao chứng tỏ chất lượng tín dụng của ngân hàng đó thấp,
năng lực tài chính, năng lực quản lý cũng như năng lực hoạt động của họ yếu