c. Hoạt động dịch vụ ngân hàng.
Ngoài những hoạt động cơ bản liên quan đến huy động và sử dụng vốn, các NHTM còn cung cấp các dịch vụ ngân hàng khác như: dịch vụ thanh toán, tư vấn tài chính, dịch vụ ủy thác, bảo hiểm, dịch vụ môi giới,.…Những dịch vụ này góp phần tạo nguồn thu đáng kể cho ngân hàng thông qua nguồn thu phí, với khả năng của việc ứng dụng công nghệ thông tin và chuyên môn của các chuyên gia ngân hàng đã giúp NHTM có thể đẩy mạnh việc phát triển hoạt động dịch vụ
của mình. Mặc dù mức độ
cung cấp các dịch vụ
ngân hàng không hoàn toàn
giống nhau ở các NHTM, nhưng không thể phủ nhận xu hướng phát triển và sự quan tâm thích đáng của NHTM đến việc phát triển dịch vụ ngày càng gia tăng. Việc phát triển các hoạt động dịch vụ ngân hàng một mặt nâng cao vị thế của một NHTM, mặt khác củng cố sự bền vững và nâng cao năng lực tài chính cho các NHTM.
1.1.2 Hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại
1.1.2.1 Khái niệm tín dụng ngân hàng
a. Khái niệm tín dụng
Trong nền
Có thể bạn quan tâm!
- Nâng cao chất lượng tín dụng tại các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam 1669220937 - 2
- Các Công Trình Nghiên Cứu Ngoài Nước Có Liên Quan Đến Luận Án
- Phương Pháp So Sánh, Phân Tích, Tổng Hợp, Suy Luận Logic
- Quy Trình Cho Vay Cơ Bản Của Các Nhtm Việt Nam Ồt G S
- Nhóm Chỉ Tiêu Thể Hiện Khả Năng Sinh Lời Từ Hoạt Động Tín Dụng
- Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Chất Lượng Tín Dụng Của Ngân Hàng Thương Mại
Xem toàn bộ 254 trang tài liệu này.
kinh tế hàng hoá, trong cùng một
thời
gian luôn có một số
người tạm thời thừa vốn, có vốn tạm thời nhàn rỗi và có nhu cầu cho vay. Bên
cạnh đó luôn có một số người tạm thời thiếu vốn, có nhu cầu đi vay. Hiện tượng
này làm nảy
sinh mối
quan hệ kinh tế mà nội
dung của
nó là vốn
được
dịch
chuyển từ nơi tạm thời thừa sang nơi thiếu với điều kiện hoàn trả vốn và lãi tiền vay là lợi nhuận thu được do sử dụng vốn vay. Đây chính là quan hệ tín dụng.
Thuật
ngữ “ Tín dụng”
có nguồn
gốc
từ tiếng
Latinh cổ là “Creditum”, có
nghĩa là sự tin tưởng, sự tín nhiệm. Tồn tại và phát triển qua nhiều hình thái kinh tế xã hội, ngày nay tín dụng được hiểu theo những quan niệm cơ bản sau:
Tín dụng là quan hệ vay mượn trên nguyên tắc hoàn trả.
Tín dụng là phạm trù kinh tế phản ánh quan hệ sử dụng vốn của nhau giữa các pháp nhân và thể nhân trong nền kinh tế
Tín dụng là một quan hệ
giao dịch giữa hai chủ
thể, trong đó một bên
chuyển giao tiền hoặc tài sản cho bên kia sử dụng trong một thời gian nhất định,
đồng thời bên nhận tiền hoặc tài sản cam kết hoàn trả thuận [41]
theo thời hạn đã thoả
Tín dụng là quan hệ vay mượn vốn lẫn nhau dựa trên sự tin tưởng số vốn đó sẽ được hoàn lại vào một ngày xác định trong tương lai.[7]
Như vậy, nghĩa của tín dụng có thể diễn đạt bằng nhiều cách khác nhau
nhưng nội dung cơ bản của những định nghĩa này đều phản ánh: một bên là
người cho vay và bên kia là người đi vay. Quan hệ giữa hai bên được ràng buộc bởi cơ chế tín dụng và pháp luật hiện tại. Việc chuyển giao giá trị hay hiện vật giữa người đi vay và người cho vay có kỳ chuyển giao ngược lại. Lượng giá trị hay hiện vật khi người đi vay hoàn trả cho người cho vay phải lớn hơn lượng họ nhận được ban đầu, hay nói cách khác người đi vay phải trả thêm phần lợi tức cho người cho vay.
Tín dụng
là quan hệ vay mượn
giữa
các chủ thể trong nền
kinh tế,
trong đó chủ thể này chuyển
nhượng
cho chủ thể khác quyền
sử dụng
một
lượng giá trị (có thể dưới
hình thức
hàng hoá hoặc
tiền
tệ)
với
những
điều
kiện và trong một tắc có hoàn trả.
thời gian nhất định mà hai bên đã thoả thuận dựa trên nguyên
b. Khái niệm tín dụng ngân hàng
Trong nền kinh tế thị trường đã và đang tồn tại nhiều hình thức tín dụng như: tín dụng thương mại, tín dụng nhà nước, tín dụng ngân hàng và các hình thức tín dụng kết hợp khác... Tuy nhiên tín dụng ngân hàng với các đặc trưng riêng vẫn được coi là hình thức tín dụng cơ bản và giữ vai trò quan trọng nhất trong hệ thống tín dụng.
Trước tiên cần làm rõ khái niệm cấp tín dụng hiện nay. “Cấp tín dụng là
việc
ngân hàng thỏa
thuận
để tổ chức,
cá nhân sử dụng
một
khoản
tiền
hoặc
cam kết
cho phép sử dụng
một
khoản
tiền
theo nguyên tắc
có hoàn trả
bằng bằng các nghiệp vụ như: cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh
toán, mua, đầu tư ngân hàng”[33]
trái phiếu doanh nghiệp, phát hành thẻ
tín dụng, bảo lãnh
Từ những nội dung trình bày ở trên, theo quan điểm của tác giả, tín dụng
ngân hàng được
hiểu
như sau: Tín dụng
n g â n h à n g là quan hệ vay mượn
giữa
n g â n h à n g với
khách hàng, trong đó ngân hàng chuyển
nhượng
cho
k h á c h h à n g quyền sử dụng một lượng giá trị (dưới hình thức hàng hoá hoặc
tiền
tệ)
với
những
điều
kiện
và trong một
thời
gian nhất định mà hai bên đã
thoả thuận dựa trên nguyên tắc có hoàn trả.
1.1.2.2 Đặc điểm chủ yếu của tín dụng ngân hàng
Tín dụng ngân hàng có một số đặc điểm sau:
Thứ nhất: Tín dụng ngân hàng dựa trên cơ sở lòng tin. Ngân hàng chỉ cấp
tín dụng khi có lòng tin vào việc khách hàng sử dụng vốn vay đúng mục hiệu quả và có khả năng hoàn trả nợ vay (gốc, lãi) đúng hạn.
đích,
Thứ hai: Tín dụng
là sự chuyển
nhượng
một
tài sản
có thời
hạn.
Ngân
hàng là trung gian tài chính “ đi vay để cho vay”, nên mọi khoản tín dụng của ngân hàng đều phải có thời hạn, bảo đảm cho ngân hàng hoàn trả vốn huy động.
Thứ ba: Tín dụng
phải
trên nguyên tắc
hoàn trả. Giá trị hoàn trả phải
lớn
hơn giá trị gốc cho vay, nghĩa là ngoài việc hoàn trả giá trị gốc,
khách hàng
phải
trả cho ngân hàng một
khoản
lãi, có như vậy mới bù đắp được chi phí
hoạt động và tạo ra lợi nhuận cho ngân hàng, phản ánh hoạt động kinh doanh ngân hàng.
Thứ tư: Tín dụng
là hoạt
động
tiềm ẩn
rủi
ro cao cho ngân hàng. Việc
thu hồi
tín dụng
phụ thuộc
không những
vào bản
thân khách hàng, mà còn
phụ thuộc
vào môi trường
hoạt
động,
ngoài tầm
kiểm
soát của
khách hàng
như sự biến động về giá cả, lãi suất, tỷ giá, lạm phát, tăng trưởng kinh tế, thị
trường,
thiên tai...khi khách hàng gặp
khó khăn do môi trường
kinh doanh
thay đổi, dẫn
đến
khó khăn trong việc
trả nợ,
điều
này khiến
cho ngân hàng
gặp rủi ro tín dụng.
Thứ năm: Tín dụng ngân hàng trên c ơ sở cam kết hoàn trả vô điều kiện.
Quá trình cho vay diễn ra trên cơ sở những căn cứ pháp lý chặt chẽ như: Hợp
đồng
tín dụng,
khế
ước
vay tiền,
hợp
đồng
bảo
lãnh... trong đó bên đi vay
phải cam kết hoàn trả vô điều kiện khoản vay cho ngân hàng khi đến hạn.
Thứ sáu: Cho vay có mục đích. Mục đích đi vay được ghi rõ trong hợp
đồng tín dụng như: phục vụ hoạt động SXKD hay đầu tư dự án hoặc cho tiêu
dùng đảm bảo cho NH không tài trợ cho các hoạt động trái luật pháp và quan
trọng hơn mục đích đi vay đó đã được NHTM thẩm định và NHTM cho rằng khách hàng sử dụng vốn đi vay đúng mục đích thì sẽ hoàn trả cả gốc và lãi đúng kỳ hạn.
Thứ bảy: Vay phải có bảo đảm theo quy định. Bảo đảm tín dụng là việc bảo vệ quyền lợi của người cho vay dựa trên cơ sở thế chấp, cầm cố tài sản thuộc sở hữu của người đi vay hoặc bảo lãnh của bên thứ ba. NHTM coi bảo
đảm tín dụng là nguồn thu nợ thứ hai khi nguồn thu nợ thứ nhất không thể thanh
toán được
nợ.
Trong kinh doanh có muôn ngàn lý do dẫn
đến
NH không thu
được nguồn thu nợ thứ nhất vì vậy cần có điều kiện bảo đảm tín dụng để hạn chế tổn thất cho NH trong tương lai.
Bản chất của tín dụng ngân hàng được diễn đạt bằng nhiều cách, nhưng đều đề cập đến mối quan hệ, một bên là người cho vay là các NHTM và một bên là người đi vay. Trong mối quan hệ này nó được ràng buộc bởi cơ chế tín dụng, chính sách lãi suất và pháp luật hiện hành. Sự hoàn trả là đặc trưng thuộc về bản
chất của tín dụng, tế khác
là dấu ấn phân biệt phạm trù tín dụng với các phạm trù kinh
1.1.2.3 Phân loại tín dụng ngân hàng
Việc
xác định
chính xác và phân loại
mục
đích vay, sử dụng
vốn
vay
của khách hàng rất quan trọng đối với ngân hàng trong việc quản lý chất lượng
tín dụng. Dựa trên cơ cấu của các lĩnh vực vay khác nhau, ngân hàng sẽ cân đối
và phân bổ hợp
lý các nguồn
vốn
của
ngân hàng vào các lĩnh vực
được
Nhà
nước khuyến khích phát triển, ít rủi ro và mang lại lợi nhuận tốt cho ngân hàng. Các hình thức phân chia tín dụng ngân hàng gôm̀ có các loại sau:
a. Phân loại theo thời hạn cấp tín dụng
Quy mô của
các khoản
tín dụng
theo thời
hạn
của
ngân hàng phải
cân
đối
và phù hợp
với
quy mô và thời
hạn
của
nguồn
vốn
huy động.
Việc
phân
loại theo thời hạn vay sẽ giúp ngân hàng có thể điều chỉnh theo hướng siết chặt
hoặc mở rộng quy mô của các kỳ hạn vay khác nhau. Căn cứ vào thời hạn cấp tín dụng, ngân hàng phân loại các khoản cho vay thành 03 loại, cụ thể:
Tín dụng ngắn hạn: là hoạt động tín dụng có thời hạn dưới 1 năm được sử dụng để: bù đắp thiếu hụt vốn lưu động của các tổ chức kinh tế, ứng trước
tiền hàng, duy trì hàng tồn kho; phục vụ nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân và hộ gia đình. Đây là loại tín dụng có mức rủi ro thấp vì thời hạn hoàn vốn nhanh, tránh được rủi ro về lãi suất, lạm phát nên lãi suất TD ngắn hạn thấp hơn các loại khác
Tín dụng trung hạn: là hoạt động tín dụng có thời hạn từ 1 đến 5 năm, được sử dụng chủ yếu để đầu tư vào tài sản cố định, đầu tư trang thiết bị máy móc, xây dựng các dự án mới có quy mô nhỏ và thu hồi vốn nhanh. Bên cạnh
đó, nó còn là nguồn nghiệp.
hình thành vốn
lưu
động
thường
xuyên của
các doanh
Tín dụng dài hạn:
Là hình thức
cho vay có thời
hạn
vay trên 5 năm.
Các khoản vay để đáp ứng nhu cầu đầu tư sản xuất kinh doanh hay dự án dài
hạn như: Xây dựng
nhà xưởng
mới,
xây dựng
nhà
ở, đầu
tư xây dựng
cơ sở
hạ tầng, giao thông vận tải,…Do thời hạn đầu tư thường kéo dài, nên tín dụng
dài hạn thường giải ngân nhiều lần theo tiến độ dự án. Nhìn chung, tín dụng dài hạn chịu rủi ro rất lớn vì những biến động không dự tính có thể xảy ra càng lớn
b. Phân loại theo tiền tệ được sử dụng
Căn cứ vaò loại tiền tệ được sử dụng, tín dụng được chia thành hai loại:
Tín dụng băǹ g nội tệ: Làloại tín dụng màngân haǹ g cấp tiền cho khách haǹ g bằng đôǹ g nội tệ, cụ thể làVND tại Việt Nam. Pháp luật Việt Nam cóquy định các giao dịch thanh toán trong nươć thì phải sử dụng đôǹ g Việt Nam.
Tiń dụng
băǹ g
ngoại
tệ:
Làloại
tín dụng
màngân haǹ g
cấp
tiền
cho
khách haǹ g bằng đôǹ g ngoại tệ, thươǹ g được sử dụng đối vơí các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, cónguôǹ thu ngoại tệ để thanh toán khi đến hạn.
c. Phân loại theo phương thức cho vay
sau:
NHTM thoả
thuận với KH việc áp dụng các phương thức cho vay như
Cho vay theo hạn mức tín dụng: Là số dư nợ cho vay cao nhất mà ngân
hàng cam kết sẽ thực
hiện
cho một
khách hàng. Hạn
mức
tín dụng được
xác
định trên cơ sở nhu cầu vay vốn của khách hàng và khả năng đáp ứng của ngân
hàng. Khi đã được
ngân hàng ấn định
hạn
mức
tín dụng
thì khách hàng được
quyền
vay vốn
với
số dư trong phạm
vi của
hạn
mức
tín dụng
đó. Khách
hàng chỉ cần làm một bộ hồ sơ vay vốn trong suốt quá trình vay
Cho vay từng lần: Áp dụng cho các đơn vị tổ chức kinh tế có nhu cầu vay vốn không thường xuyên có tính chất đột xuất, không được ấn định hạn mức tín dụng. Mỗi lần phát sinh nhu cầu vay vốn bắt buộc bên vay phải tiến hành các thủ tục làm giấy đề nghị vay vốn kèm theo các chứng từ hóa đơn để cán bộ tín
dụng kiểm tra đối tượng cho vay.
vay vốn, nếu đối tượng vay vốn phù hợp sẽ giải quyết
Cho vay theo hạn
mức
thấu
chi: Là một
kỹ thuật
cấp
tín dụng
cho
khách hàng, theo đó ngân hàng cho phép khách hàng chi vượt số dư có trên tài
khoản
thanh toán của
khách hàng để thực
hiện
các giao dịch
t hanh toán kịp
thời
cho nhu cầu
sản
xuất
kinh doanh. Để được
vay theo phương
thức
này,
khách hàng phải thường xuyên giao dịch qua ngân hàng, tình hình tài chính tương đối ổn định.
Cho vay hợp vốn: Là loại hình cho vay, trong đó một nhóm ngân hàng
thương mại cùng tham gia tài trợ chung một dự án vay. Trong đó một ngân hàng
làm đầu mối
dàn xếp, phối hợp các ngân hàng còn lại để cùng cho vay. Loại hình
này áp dụng trong trường hợp dự án có quy mô vốn
lớn, vượt quá khả năng tài
trợ của
một
ngân hàng hoặc
vượt
quá quy định
giới
hạn
của
luật
pháp. Nó
cũng được sử dụng với mục tiêu phân tán rủi ro của ngân hàng.
Cho vay lưu vụ: Là việc NH thực hiện cho vay đối với khách hàng để nuôi trồng, chăm sóc các cây trồng, vật nuôi có tính chất mùa vụ theo chu kỳ sản xuất liền kề trong năm hoặc các cây lưu gốc, cây công nghiệp có thu hoạch hàng năm. Theo đó, NH và khách hàng thỏa thuận dư nợ gốc của chu kỳ trước tiếp tục được sử dụng cho chu kỳ sản xuất tiếp theo nhưng không vượt quá thời gian của 02 chu kỳ sản xuất liên tiếp.
Cho vay theo hạn mức cho vay dự phòng: NH cam kết đảm bảo sẵn sàng cho khách hàng vay vốn trong phạm vi mức cho vay dự phòng đã thỏa thuận. NH
và khách hàng thỏa thuận thời hạn hiệu lực của hạn mức cho vay dự nhưng không vượt quá 01 năm.
phòng
Cho vay quay vòng: NH và khách hàng thỏa thuận áp dụng cho vay đối với nhu cầu vốn có chu kỳ hoạt động kinh doanh không quá 01 tháng, khách hàng được sử dụng dư nợ gốc của chu kỳ hoạt động kinh doanh trước cho chu kỳ kinh doanh tiếp theo nhưng thời hạn cho vay không vượt quá 03 tháng.
Cho vay tuần hoàn: NH và khách hàng thỏa thuận áp dụng cho vay ngắn hạn đối với khách hàng với điều kiện: Đến thời hạn trả nợ, khách hàng có quyền trả nợ hoặc kéo dài thời hạn trả nợ thêm một khoảng thời gian nhất định đối với một phần hoặc toàn bộ số dư nợ gốc của khoản vay; Tổng thời hạn vay vốn không vượt quá 12 tháng kể từ ngày giải ngân ban đầu và không vượt quá một chu kỳ hoạt động kinh doanh [23]
d. Phân loại theo đối tượng khách hàng
Khách hàng pháp nhân: Là những KH có tư cách pháp nhân có nhu cầu vốn vay cao, phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh, dự án đầu tư,....tồn tại dưới hình thức như: DN Nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, DN tư nhân, công ty liên doanh, công ty 100% vốn nước ngoài, hợp tác xã
Khách hàng thể nhân: có nhu cầu vay đa dạng với những lẻ, chủ yếu cho nhu cầu tiêu dùng và sản xuất kinh doanh nhỏ.
e. Phân loại theo hình thức cấp tín dụng
Các hình thức cấp tín dụng hiện nay tại NHTM bao gồm:
món vay nhỏ
Nghiệp vụ cho vay: Cho vay là hình thức cấp tín dụng, theo đó bên cho vay giao hoặc cam kết giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích xác định trong một thời gian nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi. Đây nghiệp vụ đặc trưng nhất của NHTM. Ngân hàng sẽ tiến hành phân phối có trọng điểm nguồn vốn đã hình thành trong nghiệp vụ huy động, điều tiết vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu, bổ sung vốn cho sản xuất kinh doanh. Đối với ngân hàng, đây là nghiệp vụ quan trọng nhất, sử dụng phần lớn nguồn vốn và tạo ra thu nhập chủ yếu.
Chiết khấu chứng từ có giá: Ngân hàng thương mại đứng ra trả trước
các hối
phiếu hoặc các chứng
từ có giá khác chưa đến hạn thanh toán theo yêu
cầu của người thụ hưởng bằng cách khấu trừ ngay một số tiền nhất định được
gọi
là chiết
khấu,
số tiền
khấu
trừ được
tính theo trị giá chứng
từ,
thời
hạn
chiết khấu, lãi suất và các tỷ lệ chiết khấu khác. Người thụ hưởng muốn nhận
số tiền
này thì bắt
buộc
phải
làm thủ tục
chuyển
nhượng
quyền
hưởng
lợi
cho ngân hàng chiết
khấu đối
với
các chứng
từ xin chiết
khấu. Trong nghiệp
vụ chiết
khấu,
ngân hàng cung cấp
tín dụng
cho doanh nghiệp
sở hữu
chứng
từ.
Nhưng
khi chứng
từ đến
hạn
ngân hàng lại
gửi
chứng
từ đi để đòi tiền
người có nghĩa vụ trả tiền.
Bảo lãnh ngân hàng: Là hình thức
cấp
tín dụng được
thực
hiện
thông
qua sự cam kết bằng
văn bản
của
ngân hàng với bên thụ hưởng
bảo
lãnh về
việc
thực
hiện
nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng của
mình, khi khách
hàng không thực
hiện
hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên
thụ hưởng bảo lãnh. Khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả lại cho ngân hàng số tiền đã được trả thay.
Bao thanh toán: Là nghiệp
vụ tín dụng
gián tiếp
của
ngân hàng
thương mại, theo đó, ngân hàng thương mại đồng ý cung cấp tín dụng cho nhà
cung cấp
nếu
nhà cung cấp xuất trình một bộ chứng từ thanh toán, trên cơ sở
hợp đồng thương mại đã ký kết với bên mua. Nói cách khác, bao thanh toán là
việc
ngân hàng thương
mại
đứng
ra trả tiền
ngay cho nhà cung cấp,
theo bộ
chứng từ mà nhà cung cấp xuất trình. Sau đó, ngân hàng sẽ đòi tiền người mua theo hợp đồng bao thanh toán đã ký kết.
Nghiệp vụ
cho thuê tài chính:
là hoạt động tín dụng trung và dài hạn
thông qua việc cho thuê máy móc thiết bị, phương tiên vận chuyển và các động
sản khác trên cơ sở hợp đồng cho thuê tài chính giữa Bên cho thuê là các công
ty Cho thuê tài chính và Bên thuê là khách hàng. Bên cho thuê là các công ty tài chính cam kết mua máy móc thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác theo yêu cầu của Bên thuê và nắm quyền sở hữu đối với các tài sản thuê trong suốt quá trình thuê. Bên thuê được sử dụng tài sản thuê, thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn thuê đã được hai bên thoả thuận và không được hủy bỏ hợp đồng thuê trước thời hạn. Khi kết thúc thời hạn thuê, Bên thuê được chuyển quyền sở hữu, mua lại hoặc tiếp tục thuê lại tài sản đó theo các điều kiện đã được hai bên thoả thuận.