Mối Quan Hệ Giữa Định Hướng Thị Trường Và Kết Quả Kinh Doanh

56


đánh giá là năng động. Yếu tố MTKD tác động mạnh đến các chiến lược phát triển của doanh nghiệp trên thị trường cũng như nguồn lực nội tại của doanh nghiệp.

Chiến lược các doanh nghiệp ngành nhà hàng – khách sạn là cần ĐHTT để xác định khách hàng nhằm đáp ứng nhu cầu khách hàng. ĐHHH nhằm cải thiện năng lực của nhân viên để gia tăng sự hài lòng của khách hàng. Đồng thời, doanh nghiệp cần phải phát triển năng lực đổi mới để thúc đẩy ĐHTT và ĐHHH nhằm gia tăng KQKD. Vì vậy, kế thừa từ nghiên cứu nghiên cứu của Suliyanto (2012), Pardi và cộng sự (2014); Mahmoud Abdulai Mahmoud và cộng sự (2016), luận án xây dựng mối quan hệ giữa ĐHTT, ĐHHH và KQKD thông qua vai trò trung gian của sự đổi mới và vai trò điều tiết của yếu tố MTKD.

57


Bảng 2.1 Bảng tổng hợp các biến nghiên cứu có liên quan


STT

Tác giả

Biến độc lập

Biến trung gian

Biến điều tiết

Biến phụ thuộc

Lý thuyết nền

1

Pardi và cộng sự (2014)

Định hướng thị trường Định hướng cạnh tranh

Định hướng học hỏi Đổi mới

Lợi thế cạnh tranh


Kết quả kinh doanh

Lý thuyết dựa trên nguồn lực

2

Mahmoud Abdulai Mahmoud và

cộng sự (2016)

Định hướng thị trường

Đổi mới

Định hướng học hỏi


Kết quả kinh

doanh

Lý thuyết năng lực

động

3

Abeer Zayed và Nawal Alawad

(2017)

Định hướng thị trường

Định hướng học hỏi

Đổi mới

Văn hóa

Kết quả kinh

doanh

Lý thuyết dựa trên

nguồn lực

4

Shehu, A.M., và Mahmood, R.

(2014)

Định hướng thị trường

Văn hóa tổ chức


Kết quả kinh

doanh

Lý thuyết dựa trên

nguồn lực

5

Aris Tri Haryanto và cộng sự

(2017)

Định hướng thị trường

Định hướng học hỏi

Đổi mới


Kết quả kinh

doanh

Lý thuyết năng lực

động

7

Suliyanto (2012)

Định hướng thị trường

Định hướng học hỏi

Đổi mới


Kết quả kinh

doanh

Lý thuyết năng lực

động

8

Vij, S., và Farooq, R. (2015)

Định hướng thị trường


Quy mô

Kết quả kinh

doanh

Lý thuyết dựa trên

nguồn lực

9

Kharabsheh, R. và Ensour, W.

(2017)

Định hướng thị trường

Định hướng học hỏi

Khả năng hấp thụ


Kết quả kinh

doanh

Lý thuyết năng lực

hấp thụ

10

Bamfo, B.A. và Kraa, J.J. (2019)

Định hướng thị trường

Đổi mới


Kết quả kinh

doanh

Lý thuyết năng lực

động

11

Eris và Ozmen (2012)

Định hướng thị trường

Định hướng học hỏi

Đổi mới


Kết quả kinh

doanh

Lý thuyết năng lực

động


Ansari và cộng sự (2013)

Định hướng công nghệ

Đổi mới


Kết quả kinh

Lý thuyết dựa trên

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 296 trang tài liệu này.

Mối quan hệ giữa định hướng thị trường, định hướng học hỏi với kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp khách sạn – nhà hàng Trường hợp nghiên cứu tại thành phố Hồ Chí Minh - 10

58







doanh

kiến thức

11

Lại Văn Tài và

Hứa Thị Kiều Mai Phương (2007)

Định hướng khách hàng Định hướng cạnh tranh Phối hợp chức năng Kiểm soát lợi nhuận

Ứng phó nhạy bén



Kết quả kinh doanh

Lý thuyết hiệu quả thị trường

12

Lê Nguyễn Hậu và Phạm Ngọc Thúy (2007)

Định hướng khách hàng Định hướng cạnh tranh Phối hợp chức năng Kiểm soát lợi nhuận

Ứng phó nhạy bén



Kết quả kinh doanh

Lý thuyết hiệu quả thị trường

13

Bùi Huy Hải Bích và Võ Thị Thanh Nhàn (2007)

Định hướng khách hàng Định hướng cạnh tranh Phối hợp chức năng Định hướng lợi nhuận

Ứng phó nhạy bén



Kết quả kinh doanh

Lý thuyết hiệu quả thị trường

(Nguồn: Tác giả tổng hợp)

59


2.4.2. Phát triển giả thuyết nghiên cứu

2.4.2.1 Mối quan hệ giữa định hướng thị trường và kết quả kinh doanh

Kohli và Jaworski (1990) đã giải thích các mô hình tiền tố và hậu tố của ĐHTT. Các kết quả nghiên cứu cho thấy chính sách của người quản lý cấp cao, động lực trong sự hợp tác giữa các phòng ban trong công ty, cũng như hệ thống tổ chức là tiền tố ĐHTT. Hậu tố của ĐHTT là sự phản ứng của nhân viên, phản hồi của khách hàng và kết quả của công ty. Hơn nữa giải thích thêm về ĐHTT, theo Kohli và Jaworski (1990), có ba yếu tố chính: Tập trung vào khách hàng, phối hợp tiếp thị, phối hợp giữa các phòng ban trong công ty.

Theo Hult và cộng sự (2005) đã tiến hành nghiên cứu về ĐHTT và đại diện thị trường. Kết quả nghiên cứu cho thấy ĐHTT đã có tác động đến KQKD.Tuy nhiên, những ảnh hưởng này phụ thuộc vào phản ứng của tổ chức. Kết quả này cũng được hỗ trợ bởi Bhuian và cộng sự (2003), họ nghiên cứu ảnh hưởng của kinh doanh đến mối quan hệ giữa ĐHTT và kết quả bằng cách sử dụng dân số từ các bệnh viện ở Hoa Kỳ. Kết quả đảm bảo ĐHTT và tinh thần kinh doanh là hai yếu tố chính cho sự thành công của một tổ chức. Ngoài ra, phát hiện cho thấy khi công ty duy trì một mức độ vừa phải theo định hướng kinh doanh, ĐHTT đã chứng minh là hiệu quả nhất. Hơn nữa, phát hiện này phù hợp với các quan điểm bất ngờ của doanh nhân, điều đó có nghĩa là mức độ cao của tinh thần kinh doanh không giống nhau ở một số thị trường và điều kiện cơ cấu nhất định.

Theo Kirca và cộng sự (2005) cho thấy rằng công việc thực nghiệm hỗ trợ một giả thuyết ĐHTT có tác động tích cực đến KQKD. Panigyrakis và Theodoridis (2007) họ đã kiểm tra ĐHTT liên quan đến KQKD của một công ty bán lẻ. Các đối tượng được lựa chọn từ chuỗi cửa hàng của siêu thị, kết quả tìm thấy ảnh hưởng của ĐHTT đến kết quả của một công ty. Điều này phù hợp với một nghiên cứu nổi tiếng trước đây được thực hiện bởi Narver và Slater (1990), người đã phát triển các công cụ đo lường dựa trên thị trường liên quan đến KQKD. Các kết quả kết luận rằng ĐHTT là một yếu tố quan trọng quyết định lợi nhuận kinh doanh. Điều này chỉ ra rằng ĐHTT là yếu tố quyết định đến KQKD của một công ty.

60


Tuy nhiên, Song and Parry (2009) lập luận rằng nghiên cứu này không thể kết luận rằng sự gia tăng trong ĐHTT luôn có lợi, bởi vì các mô hình thống kê giả định mối quan hệ tuyến tính giữa mức độ đạt được của ĐHTT và kết quả. Nghiên cứu này đã điều tra mức độ mong muốn của ĐHTT và kết quả của đơn vị kinh doanh bằng cách sử dụng các đối tượng từ 308 công ty Hoa Kỳ. Kết quả cho thấy mức độ ĐHTT mong muốn là một sự bất ổn của thị trường, cường độ cạnh tranh, bất ổn về công nghệ, và chiến lược đổi mới. Hơn nữa, phạm vi của ĐHTT mong muốn thể hiện ảnh hưởng tích cực đến mức độ đạt được. Ngoài ra, kết quả của các đơn vị kinh doanh thể hiện một hàm ý tiêu cực về sự khác biệt giữa mức độ mong muốn và thành tựu của ĐHTT khi thị trường đạt đến mức thấp hơn mức mong muốn.

Smirnova và cộng sự (2011) đã thử nghiệm ảnh hưởng của ĐHTT với các xu hướng tới khách hàng mang lại kết quả tích cực cho KQKD đáng kể và không đáng kể. ĐHTT với chiều hướng của định hướng chức năng chéo cho kết quả không đáng kể liên quan đến mối quan hệ và kết quả đáng kể về KQKD. ĐHTT với chiều hướng phối hợp chéo chức năng không ảnh hưởng đáng kể đến khả năng quan hệ và KQKD. Dựa trên đánh giá tài liệu và nghiên cứu trước đây, tác giả xin đề xuất giả thuyết:

Giả thuyết H1: ĐHTT tác động cùng chiều đến KQKD

2.4.2.2 Mối quan hệ giữa định hướng thị trường và sự đổi mới

Nghiên cứu được phát triển bởi Kohli và Jaworski (1990) cho thấy phản ứng nhanh chóng và chính xác cho nhu cầu của khách hàng trở thành yếu tố quan trọng khi công ty đang đối phó với các đối thủ cạnh tranh sẵn sàng vượt qua thị trường. Trong khi đó, Carbonell và Escudero (2009) đề xuất rằng việc để lại sự ảnh hưởng đến khả năng của tổ chức để đạt được tốc độ đổi mới của tổ chức, để cải thiện kết quả trong các lần ra mắt sản phẩm mới. Bodlaj (2003) tuyên bố rằng ĐHTT đóng vai trò quan trọng trong sự đổi mới được đánh dấu bằng sự thành công của việc bán sản phẩm mới làm tăng giá trị cho khách hàng và cải thiện kết quả của công ty. ĐHTT theo Jensen và Harmsen (2001) được coi là một yếu tố quan trọng trong hoạt

61


động đổi mới của các công ty được đặc trưng bởi mức độ thành công của việc phát triển sản phẩm mới. Dựa trên đánh giá tài liệu và nghiên cứu trước đây, tác giả xin đề xuất giả thuyết:

Giả thuyết H2: ĐHTT tác động cùng chiều đến sự đổi mới

2.4.2.3 Mối quan hệ giữa định hướng thị trường và định hướng học hỏi

ĐHTT là một dạng nguồn lực của doanh nghiệp vì nó giúp doanh nghiệp gia tăng tính chủ động để theo đuổi mục tiêu và chấp nhận rủi ro kinh doanh (Covin và Mlies, 1999; Lumpink và Dess, 1996). Vì vậy, doanh nghiệp có ĐHTT cao sẽ tạo ra tri thức cho doanh nghiệp (Zahra và cộng sự, 1999). Quá trình này gắn liền với quá trình học hỏi và loại bỏ những tri thức không còn phù hợp để giúp doanh nghiệp phản ứng lại với sự thay đổi và tạo nên lợi thế cạnh tranh (Zahra và cộng sự, 1999). Mối quan hệ giữa ĐHTT và ĐHHH đã được kiểm chứng từ các nghiên cứu và kết quả cho thấy giữa chúng có mối quan hệ cùng chiều (Pardi và cộng sự, 2014; Mahmoud Abdulai Mahmoud và cộng sự, 2016; Suliyanto và Rahaba, 2012; Eris và Ozmen, 2012). Dựa trên cơ sở này giả thuyết H3 được đề xuất:

Giả thuyết H3: ĐHTT tác động cùng chiều đến ĐHHH

2.4.2.4 Mối quan hệ giữa định hướng học hỏi và kết quả kinh doanh

ĐHHH gắn liền với KQKD. Trong những năm qua, một số nghiên cứu đã tập trung vào mối quan hệ giữa ĐHHH và KQKD (Pett và Wolff, 2010; và Eshlaghy và Maatofi, 2011). Martinette và cộng sự (2012) cho thấy ĐHHH tích cực và ảnh hưởng đáng kể đến KQKD. Calantone và cộng sự (2002) khẳng định rằng ĐHHH làm tăng kết quả của doanh nghiệp trực tiếp và gián tiếp thông qua ảnh hưởng của nó đối với lợi thế cạnh tranh.

Nghiên cứu của Eris và Ozmen (2012) đã cung cấp bằng chứng rõ ràng về vai trò của ĐHTT, học hỏi tổ chức và đổi mới trong hoạt động của công ty. Tuy nhiên, các nghiên cứu kiểm tra mối quan hệ giữa học hỏi của tổ chức và kết quả của tổ chức bằng các chỉ số về hiệu quả của công ty như tăng trưởng thị trường, tăng trưởng lợi nhuận, sự hài lòng của khách hàng và báo cáo tài chính cho kết quả trái ngược nhau. Khi đó Mavondo và cộng sự (2005) trong nghiên cứu của họ cho thấy

62


rằng định hướng sáng suốt, định hướng khách hàng và vai trò của nguồn nhân lực đã mang lại kết quả tích cực cho kết quả của công ty.

Kropp và cộng sự (2006a) đã xem xét mối quan hệ giữa định hướng kinh doanh, hoạt động tiếp thị và học hỏi tổ chức và KQKD trong các công ty kinh doanh quốc tế và kết quả cho thấy mối quan hệ tích cực giữa đổi mới, ĐHTT và học hỏi tổ chức với KQKD. Trong khi Michna (2009) cho thấy mối quan hệ giữa ba biến bao gồm quản lý đa văn hóa trong doanh nghiệp, học hỏi tổ chức và kết quả tổ chức có liên quan đến học hỏi tổ chức. Các khía cạnh của việc học hỏi trong tổ chức có mối tương quan với kết của tổ chức. Dựa trên đánh giá tài liệu và nghiên cứu trước đây, tác giả xin đề xuất giả thuyết:

Giả thuyết H4: ĐHHH tác động cùng chiều đến KQKD

2.4.2.5 Mối quan hệ giữa định hướng học hỏi và sự đổi mới

Lin và Peng (2008) chỉ ra rằng kết quả của nghiên cứu đã kiểm tra mối quan hệ của học hỏi tổ chức với sự đổi mới đưa ra các kết quả khác nhau, nhưng các chuyên gia tin rằng việc học hỏi tổ chức có ảnh hưởng đến sự đổi mới của công ty. Hơn nữa, trong nghiên cứu này kết luận rằng ĐHHH ảnh hưởng đến sự đổi mới và đổi mới ảnh hưởng đến kết quả của một doanh nghiệp. Bên cạnh đó, Lin và Peng (2008) cũng cho thấy rằng định hướng của thị trường được thực hiện bởi công ty đã đóng góp thực sự cho ĐHHH của công ty. Hơn nữa, nghiên cứu này cũng chỉ ra rằng biến định hướng kinh doanh ảnh hưởng đến sự đổi mới, ĐHHH ảnh hưởng đến sự đổi mới, do đó sự đổi mới cũng mang lại ảnh hưởng chính đến KQKD.

ĐHHH là một cơ chế ảnh hưởng trực tiếp đến các công ty, khả năng thách thức các giả định cũ về thị trường và cách tổ chức một công ty để định hướng nó giúp cho việc đổi mới trở nên dễ dàng hơn (Baker và Sinkula, 2002). ĐHHH chuẩn bị cho các công ty bước vào giai đoạn mà họ sẽ cam kết thách thức một cách có hệ thống những niềm tin và thực tiễn cơ bản tự xác định các quá trình đổi mới (Baker và Sinkula, 1999a).

Có một sự đồng thuận trong văn học nói rằng học hỏi tạo ra kiến thức mới được sử dụng bởi các nhân viên của mình để phát triển các sáng kiến, và nếu trong

63


tổ chức, nó được thúc đẩy mức độ đổi mới cao sẽ được phát triển. Đổi mới và học hỏi tổ chức là các tài nguyên tạo ra lợi thế cạnh tranh và cả hai đều ảnh hưởng đến kết quả của các công ty (Lin và cộng sự, 2013). Một số tác giả chỉ ra rằng mối quan hệ giữa học hỏi và đổi mới tổ chức vẫn còn khan hiếm, vì tài liệu đã được tập trung vào các hiệu ứng học hỏi của tổ chức về kết quả của công ty (Wang, 2008). Tuy nhiên, gần đây, sự nhấn mạnh đã được mở rộng để coi đổi mới là có tác dụng của người điều hành liên quan đến cả hai biến (Keskin, 2006; Alegre và Chiva, 2013; Akguin và cộng sự, 2007). Dựa trên đánh giá tài liệu và nghiên cứu trước đây, tác giả xin đề xuất giả thuyết:

Giả thuyết H5: ĐHHH ảnh hưởng cùng chiều cho sự đổi mới

2.4.2.6 Mối quan hệ giữa đổi mới và kết quả kinh doanh

Nghiên cứu thực hiện bởi Eshlaghy và Maatofi (2011) cho thấy vai trò quan trọng của sự đổi mới có thể đóng góp tích cực vào kết quả của công ty. Vai trò của công ty trong việc ứng phó với môi trường gập ghềnh đòi hỏi phải có sự đổi mới, tự động đóng vai trò trung tâm trong việc đạt được kết quả cao nhất. Mặc dù nhiều nhà nghiên cứu trong quá khứ đã điều tra sự ảnh hưởng của đổi mới đối với kết quả của tổ chức, nhưng có vẻ như vai trò của sự đổi mới cần phải hỗ trợ cho kết quả của công ty.

Holtzman (2008) đã phát hiện ra rằng điều quan trọng đối với các công ty là sự đổi mới vì chúng là bộ phận quan trọng của công ty và là cơ hội cho sự thành công của công ty trong tương lai. Lin và Kuo (2007), cũng cho thấy nhiều công ty đang thực hiện đổi mới, cả dưới hình thức đổi mới công nghệ và tiếp thị.

Đổi mới là một yếu tố quan trọng quyết định KQKD trong môi trường cạnh tranh thay đổi (Bueno và cộng sự, 2004). KQKD có liên quan đến khả năng đạt được lợi nhuận và tăng trưởng của công ty để đạt được các mục tiêu chiến lược chung (Hult và cộng sự, 2004). Keizer và cộng sự (2002) nhấn mạnh rằng đổi mới của công ty phụ thuộc vào các cơ hội do môi trường bên ngoài của họ cung cấp. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể sử dụng đổi mới như một công cụ để đạt được KQKD tốt hơn (Forsman và Temel, 2011). Hult và cộng sự (2004) cho rằng những

Xem toàn bộ nội dung bài viết ᛨ

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 15/03/2023