con người sinh ra "ai cũng có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc". Như vậy, quyền con người có đặc điểm đó là mang bản chất tự nhiên, khi sinh ra họ đã mặc nhiên có những quyền này. Bên cạnh đó, quyền công dân là một phạm trù hẹp hơn so với quyền con người, quyền công dân do nhà nước và pháp luật quy định trong một phạm vi lãnh thổ quốc gia nhất định. Mặc dù có sự khác nhau về phạm vi khái niệm nhưng về cơ bản quyền công dân và quyền con người đều có chung đặc điểm đó là con người có quyền sống, quyền tự do, quyền tạo dựng cho mình hạnh phúc, các cá nhân, tổ chức hay bất kỳ nhà nước nào cũng đều phải tôn trọng và bảo vệ.
Quyền tự do kinh doanh là một bộ phận không thể tách rời của quyền công dân. Bảo vệ quyền tự do kinh doanh suy đến cùng là bảo vệ quyền con người. Nhà nước chỉ có thể bảo vệ hữu hiệu những quyền cơ bản này khi có một hệ thống pháp luật được xây dựng hoàn thiện, trong đó quyền con người và quyền công dân là hạt nhân trung tâm của hệ thống pháp luật. Bảo vệ quyền tự do kinh doanh sẽ thúc đẩy kinh tế phát triển, đảm bảo nhu cầu vật chất cho cá nhân, là động lực thúc đẩy tiến bộ xã hội. Bởi vậy, có thể nói rằng hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền tự do kinh doanh chính là bảo vệ quyền con người.
Chúng ta đều thừa nhận rằng, không phải hệ thống pháp luật nào cũng là pháp luật dân chủ, nhưng không một nước dân chủ nào mà pháp luật không ghi nhận nguyên tắc dân chủ và không bảo vệ dân chủ, bảo vệ quyền con người. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cho rằng, nhân dân không chỉ lập ra Nhà nước mà còn phải tham gia, quản lý nhà nước "Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ". Điều đó có nghĩa là công dân có quyền tham gia vào công việc của chính quyền, tham gia vào quy trình ra quyết định, và cũng có quyền khiếu nại các hành vi không tuân thủ pháp luật của chính quyền. Như trên đã nêu, quyền tự do kinh doanh là một hợp phần của quyền công dân, quyền con người, bởi vậy nó phải được ghi nhận rõ ràng trong đạo luật có giá trị cao nhất, tức là được xây dựng trong Hiến Pháp. Bên
cạnh đó, quyền tự do kinh doanh và những quy định về bảo vệ quyền tự do kinh doanh cần được nhân dân tham gia đóng góp, bởi chính họ là chủ thể được pháp luật quản lý và điều chỉnh.
3.2.3. Việc hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền tự do kinh doanh phải đáp ứng yêu cầu xây dựng, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một nền kinh tế hỗn hợp, vừa vận hành theo cơ chế thị trường vừa có sự điều tiết của nhà nước. Các quy luật khách quan của nền kinh tế thị trường được tôn trọng, các thông lệ quốc tế trong quản lý và điều hành kinh tế được vận dụng một cách hợp lý có sự đa dạng của các hình thức sở hữu nhưng kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Việc phân bổ các nguồn lực vừa được tiến hành theo hướng nâng cao hiệu quả, vừa theo hướng giúp thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các địa phương. Phát triển kinh tế gắn với tiến bộ, công bằng xã hội, dân chủ, văn minh. Việc chuyển sang nền kinh tế thị trường ở Việt Nam không phải đơn thuần là một quá trình kinh tế mà bao giờ cũng phải gắn liền với những thay đổi lớn, căn bản về mặt xã hội. Khi thực hiện xây dựng hoàn thiện pháp luật thì phải giải quyết được hai vấn đề đó là pháp luật phải phản ánh được tính đa dạng về sở hữu, bảo đảm quyền tự do kinh doanh. Mặt khác phải kết hợp các loại lợi ích khác nhau đó với sự tiến bộ, công bằng xã hội.
Để thực hiện được mục tiêu phát triển kinh tế hàng hóa thì việc bảo vệ quyền tự do kinh doanh là nhiệm vụ hàng đầu, bởi không có tự do kinh doanh sẽ không thể thúc đẩy được sản xuất hàng hóa, nhóm ngành dịch vụ không phát huy được vai trò thay thế kinh tế nông nghiệp để chiếm dần tỉ trọng trong thu nhập quốc dân. Phát triển kinh tế thị trường kéo theo đó là cả hệ thống pháp luật cần phải thay đổi để phù hợp với mục tiêu điều chỉnh quan hệ xã hội. Tuy nhiên, xuất phát từ yếu tố lịch sử và định hướng chính trị được Đảng, Nhà nước và toàn dân lựa chọn thì có bất kỳ thay đổi nào thì mục tiêu quan
trọng nhất là xây dựng đất nước tiến lên xã hội chủ nghĩa. Bởi vậy, việc hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền tự do kinh doanh ở nước ta luôn gắn với yêu cầu xây dựng phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
3.2.4. Việc hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền tự do kinh doanh phải phù hợp với yêu cầu hội nhập quốc tế
Sự hội nhập kinh tế của Việt Nam vào kinh tế khu vực và thế giới trong xu thế toàn cầu hóa về kinh tế là xu thế không thể đảo ngược được. Hơn nữa, Việt Nam đã là thành viên của Tổ chức thương mại thế giới cho nên chúng ta phải chấp nhận cạnh tranh bình đẳng trong một sân chơi chung. Mặt khác, trong hoạt động kinh doanh quốc tế thì xuất hiện nhiều chủ thể mang quốc tịch khác nhau. Chính vì vậy, tính hài hòa giữa pháp luật nước ta nói chung, nhất là pháp luật trong lĩnh vực kinh tế là một tiền đề không thể thiếu trong việc tạo dựng nền tảng pháp lý cho hội nhập.
Có thể bạn quan tâm!
- Thực Trạng Quy Định Của Pháp Luật Về Bảo Vệ Quyền Tự Do Cạnh Tranh Lành Mạnh
- Một Số Quy Định Của Pháp Luật Về Bảo Vệ Quyền Tự Do Kinh Doanh Mang Nặng Dấu Ấn Của Quản Lý Độc Quyền Hành Chính
- Những Căn Cứ Cho Việc Hình Thành Yêu Cầu, Giải Pháp Hoàn Thiện Quy Định Của Pháp Luật Về Bảo Vệ Quyền Tự Do Kinh Doanh
- Bảo vệ quyền tự do kinh doanh theo pháp luật Việt Nam - 12
- Bảo vệ quyền tự do kinh doanh theo pháp luật Việt Nam - 13
Xem toàn bộ 113 trang tài liệu này.
3.3. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ QUYỀN TỰ DO KINH DOANH Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
3.3.1. Sửa đổi, bổ sung Bộ luật Dân sự và các văn bản pháp luật về doanh nghiệp, thương mại dịch vụ để đảm bảo sự thống nhất trong các quy định về bảo vệ quyền tự do kinh doanh
Thứ nhất, việc thành lập, quản lý doanh nghiệp chỉ do Luật Doanh nghiệp điều chỉnh.
Theo quy định của pháp luật hiện hành có quá nhiều cơ quan can thiệp vào hoạt động cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Mỗi một lĩnh vực chuyên ngành bộ chủ quản lại đưa thêm ra một số giấy phép, chẳng hạn trong lĩnh vực thành lập doanh nghiệp hoạt động về du lịch, thành lập doanh nghiệp hoạt động về giáo dục... sau khi nhà đầu tư đã thành lập một loại hình công ty như yêu cầu của pháp luật, được cấp phép kinh doanh họ còn phải thỏa mãn được các yêu cầu xin giấy phép của quy định trong luật chuyên ngành thì Nhà
đầu tư mới được hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh đó. Sự chồng chéo, mâu thuẫn của một số luật chuyên ngành với Luật Doanh nghiệp đang gây ra nhiều hệ quả làm tổn hại đến quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp. Bởi vậy, Luật doanh nghiệp sẽ cần phải được sửa đổi theo hướng quy định rõ luật chuyên ngành chỉ can thiệp về mặt hoạt động còn về việc thành lập và quản lý cần tuân thủ quy định của Luật Doanh nghiệp. Việc quản lý hệ thống đăng ký doanh nghiệp phải thống nhất ở một cơ quan. Có như vậy mới tránh được tình trạng chồng chéo giữa các luật, tránh tình trạng luật chuyên ngành quy định thay cả luật doanh nghiệp.
Thứ hai, sửa đổi về việc ghi mã ngành trong đăng ký doanh nghiệp
Ngành, nghề kinh doanh trong Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp được ghi và mã hóa theo ngành cấp bốn trong hệ thống ngành kinh tế Việt Nam, trừ những ngành, nghề cấm kinh doanh. Và nội dung cụ thể của các phân ngành trong ngành kinh tế cấp bốn được thực hiện theo Quy định về nội dung hệ thống ngành kinh tế Việt Nam do Bộ Kế hoạch và Đầu tư ban hành. Tuy nhiên, trên thực tế khi tiến hành đăng ký kinh doanh, các phòng đăng ký kinh doanh thuộc Sở Kế hoạch và Đầu tư cấp tỉnh luôn luôn yêu cầu người thành lập doanh nghiệp chỉ được phép ghi tên mã ngành cấp IV mà người đi đăng ký thành lập doanh nghiệp không có qụyền được đăng ký theo "ngành nghề kinh doanh mà pháp luật không cấm". Việc bắt buộc ghi mã ngành trong giấy đề nghị đăng ký kinh doanh đã làm trái hẳn với nội dung được quy định trong Luật Doanh nghiệp năm 2003, trái với quy định của Hiến pháp. Về mặt lý luận thì mã ngành chỉ mang tính chất thống kê chứ không phải là quy phạm bắt buộc các chủ thể phải đăng ký theo những ngành đã được thống kê. Bởi vậy, cần có hướng dẫn cụ thể từ các cơ quan có thẩm quyền hướng dẫn cụ thể việc ghi mã ngành theo hướng "Công dân có quyền tự do kinh doanh" việc ghi mã ngành không cần bắt buộc trong thủ tục đăng ký kinh doanh, đưa việc quy định mã ngành trở về đúng với chức năng vốn có của nó là mang tính chất thống kê.
Thứ ba, có hướng dẫn cụ thể về việc thực hiện thủ tục thành lập doanh nghiệp qua mạng điện tử.
Với việc Việt Nam trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), cùng với tốc độ phát triển nhanh của các giao lưu thương mại, kéo theo đó là các doanh nghiệp được thành lập để thỏa mãn nhu cầu kinh doanh và phát triển kinh tế của các nhà đầu tư. Tuy nhiên trên thực tế hiện nay, phần lớn người thành lập doanh nghiệp vẫn chưa thực sự nắm được trình tự của việc đăng ký doanh nghiệp qua mạng điện tử, vẫn chú trọng vào hình thức đăng ký kinh doanh thuần túy là trực tiếp đến phòng đăng ký kinh doanh thuộc sở kế hoạch đầu tư các tỉnh làm việc trực tiếp. Cách đăng ký truyền thống có nhiều thuận lợi nhưng chi phí giao dịch lớn, tiêu tốn thời gian và kéo theo đó là cả một cơ chế hành chính tương đối phức tạp. Bởi vậy, cần phát huy vai trò của việc dùng công nghệ thông tin để thay đổi cách thành lập doanh nghiệp truyền thống. Hơn nữa, việc thực hiện đăng ký thành lập, thay đổi thông tin về doanh nghiệp thực hiện qua cổng thông tin điện tử thể hiện được yếu tố tương thích với nền hành chính công của các quốc gia tiên tiến trên thế giới. Đồng thời thực hiện tốt chủ trương cải cách hành chính ở nước ta hiện nay.
Thứ tư, giải quyết triệt để mâu thuẫn trong luật dân sự
Bộ luật Dân sự năm 2005 ra đời đã giải quyết được về cơ bản mâu thuẫn trước đây so với luật năm 1995 và Pháp lệnh về hợp đồng kinh tế. Tuy nhiên, để đảm đương nhiệm vụ là luật gốc, tạo khung pháp lý ổn định để xây dựng các luật chuyên ngành thì còn nhiều hạn chế, đặc biệt ngay trong bản thân Bộ luật Dân sự năm 2005 còn tồn tại nhiều mâu thuẫn. Bởi vậy, giải quyết mâu thuẫn trong Bộ luật Dân sự là một đòi hỏi khách quan và cần thiết. Do đó, nên sửa đổi mâu thuẫn trong Bộ luật Dân sự theo hướng:
Đối với các loại hợp đồng được quy định cụ thể trong luật chuyên ngành thì Bộ luật Dân sự nên chỉ quy định khung pháp lý chung, nâng cao vai trò là
đạo luật gốc, còn các vấn đề chi tiết, cụ thể thì nên để luật chuyên ngành quy định. Tiếp đó, với tốc độ phát triển nhanh, mạnh của nền kinh tế thì các giao lưu dân sự bùng nổ theo cấp số nhân. Tuy nhiên, một số dạng hợp đồng thông dụng nhưng rất quan trọng thì Bộ luật Dân sự chưa quy định như: Hợp đồng tín dụng, chuyển nhượng cổ phần, liên doanh, hợp tác đầu tư...Bởi vậy, trong việc sửa đổi cần quy định khung pháp lý cơ bản cho các loại hợp đồng nêu trên.
Thứ năm, Bổ sung những quy định về hình thức hợp đồng trong pháp luật dân sự
Luật dân sự nên quy định cụ thể hoặc để một số luật chuyên ngành quy định rõ loại hợp đồng nào cần phải tuân thủ triệt để về mặt hình thức. Trong trường hợp các bên cố tình không tuân thủ thì hợp đồng đó đương nhiên vô hiệu. Tránh tình trạng khi xảy ra tranh chấp Tòa án buộc phải tuyên hợp đồng vô hiệu vì có vi phạm về mặt hình thức như hiện nay. Cụ thể giải pháp này nên thực hiện như sau:
Trong Bộ luật Dân sự phải xác định rõ các loại hợp đồng cần được công chứng, loại hợp đồng nào bắt buộc phải lập thành văn bản, loại hợp đồng nào do các bên tham gia tự lựa chọn hình thức và được pháp luật thừa nhận trong mọi trường hợp. Hạn chế đến mức tối đa việc Tòa án phải tuyên hợp đồng vô hiệu về mặt hình thức. Bên cạnh đó, về hình thức của hợp đồng nên tuân theo nguyên tắc tự do ý chí lựa chọn hình thức cho các chủ thể khi tham gia quan hệ pháp luật dân sự.
3.3.2. Phân biệt làm rõ tranh chấp thương mại và tranh chấp dân sự để xác định Tòa án có thẩm quyền giải quyết
Hiện nay, trong một số trường hợp tiêu chí để xác định tranh đấu là tranh chấp trong kinh doanh thương mại hoặc tranh chấp dân sự chưa rõ ràng dẫn đến việc gây khó khăn cho cả đương sự và cơ quan tố tụng. Bởi vậy, nhằm thống nhất việc giải quyết vụ án, vụ việc phát sinh trong kinh doanh, Tòa án nhân dân tối cao nên có văn bản hướng dẫn lại tiêu chí để xác định
tranh chấp theo hướng đó là tranh chấp kinh doanh thương mại không bắt buộc phải tuân thủ điều kiện về chủ thể là phải có đăng ký kinh doanh mà chỉ cần đảm bảo yếu tố là các bên đều có mục đích lợi nhuận thì áp dụng quy định trong thương mại để giải quyết.
3.3.3. Sửa đổi, bổ sung Luật phá sản năm 2004 để nâng cao tính khả thi cho các quy định của pháp luật
Thứ nhất, chấp nhận phá sản là một tiến trình của hoạt động doanh nghiệp.
Phá sản là một quy trình ngược lại với đăng ký thành lập doanh nghiệp, thành lập doanh nghiệp là "khai sinh" ra một hình thức để kinh doanh còn phá sản là chấm dứt hoạt động của doanh nghiệp. Tuy nhiên, pháp luật hiện hành ở Việt Nam và đặc biệt là tâm lý của những người quản lý doanh nghiệp thì phá sản không được hiểu một cách đơn thuần, kéo theo nó là rất nhiều hệ lụy khiến cho luật phá sản rất ít có cơ hội được áp dụng. Theo quy định của Luật Phá sản hiện hành, chủ doanh nghiệp phá sản và những người quản lý doanh nghiệp đó sẽ bị tòa ra quyết định không được quyền thành lập cũng như cấm đảm nhiệm các chức vụ quản lý doanh nghiệp từ một đến ba năm, kể từ ngày doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản. Đối với người giữ chức vụ quản lý, điều hành Công ty 100% vốn nhà nước, người được giao đại diện phần vốn góp của nhà nước ở doanh nghiệp khác bị tuyên bố phá sản thì sẽ không được đảm đương chức vụ đó ở bất kỳ doanh nghiệp nhà nước nào, cũng như doanh nghiệp nào có vốn nhà nước. Với những quy định hiện hành của Luật Phá sản đã vô hình trung biến những chủ nhân điều hành doanh nghiệp dẫn đến phá sản bị pháp luật xem là người có lỗi lớn và sẽ không khuyến khích doanh nghiệp chọn cách phá sản theo luật.
Bởi vậy Luật Phá sản cần phải sửa đổi sao cho cả doanh nghiệp và chủ nợ thấy được rằng phá sản doanh nghiệp là chuyện bình thường. Theo đó, Tòa án cần có sự linh hoạt khi xử lý các vụ phá sản, chỉ cần kiểm tra tính hợp pháp của yêu cầu phá sản, cần rút gọn quy trình, thủ tục... tuyên bố phá sản.
Một trong những hướng để Tòa án có thể giải quyết nhanh chóng yêu cầu phá sản của doanh nghiệp đó là trước khi thụ lý hồ sơ phá sản của doanh lâm vào tình trạng phá sản, các doanh nghiệp này phải hoàn tất thủ tục kiểm toán và thẩm định giá trị tài sản còn lại. Tòa án chỉ thực hiện đối chiếu công nợ, triệu tập hội nghị chủ nợ để xem xét cơ sở cho phép khôi phục hoạt động của doanh hoặc ban hành quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp, đồng thời ra quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản. Trách nhiệm quản lý tài sản thuộc về doanh nghiệp phá sản.
Tuy nhiên, để luật bám sát nhu cầu thực tiễn và trở thành người "bạn đồng hành" của doanh nghiệp chúng ta cũng cần phải học hỏi kinh nghiệm từ các nước. Đơn cử, như thủ tục phá sản của Hoa Kỳ cho thấy, một vụ án phá sản bắt đầu bằng việc doanh nghiệp nộp đơn ở tòa phá sản. Tòa yêu cầu doanh nghiệp nộp bảng cân đối tài chính, liệt kê tài sản, tên và địa chỉ của tất cả chủ nợ với khoản nợ kèm theo. Ở một số vụ phá sản doanh nghiệp được phép tổ chức lại sản xuất kinh doanh và lập kế hoạch trả nợ, trong khi một số vụ thì giải quyết việc thanh lý tài sản của con nợ. Cách thức tiếp cận những tiến bộ trong pháp luật của các quốc gia tiên tiến là một giải pháp tốt để hoàn thiện hệ thống pháp luật phá sản ở nước ta.
Thứ hai, sửa đổi các quy định về việc cung cấp căn cứ phá sản
Điều 13 của Luật phá sản quy định về quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của chủ nợ quy định, khi nhận thấy doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản thì các chủ nợ không có bảo đảm hoặc có một phần đều có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã đó. Người nộp đơn phải nộp chứng cứ chứng minh. Dựa trên căn cứ tài liệu, giấy tờ đó Tòa sẽ xem xét mở hay không mở thủ tục phá sản. Điều 22 của Luật phá sản quy định sau khi nhận được yêu cầu mở thủ tục phá sản, nếu thấy cần sửa đổi đơn, bổ sung tài liệu thì Tòa án yêu cầu người nộp đơn thực hiện việc sửa đổi, bổ sung trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được yêu