Đặc Điểm Của Nền Kinh Tế Thị Trường Định Hướng Xã Hội Chủ

sự phân hoá, xuất hiện quan hệ chủ thợ, tư sản - vô sản, thống trị - bị thống trị, bóc lột - bị bóc lột.

Sự phân hoá càng gay gắt với quá trình tích luỹ tư bản, tích luỹ sự giàu có về phía giai cấp chủ tư sản, thống trị, bóc lột và tích luỹ sự nghèo khổ về phía những người vô sản, làm thuê, bị thống trị và bị bóc lột. Điều đó gây lên sự đối kháng gay gắt, dẫn đến sự khủng hoảng về chính trị, xã hội, các cuộc chiến tranh và cách mạng đe doạ sự tồn tại của xã hội tư bản chủ nghĩa.

Thứ ba, tình trang độc quyền đã lấn át cạnh tranh làm mất tính năng động và hiệu quả của nền kinh tế.

Độc quyền là hiện tượng một doanh nghiệp nào đó độc chiếm việc sản xuất và cung ứng hàng hoá dịch vụ trên thị trường. Nhờ đó mà xí nghiệp độc quyền định giá cả, thu lợi nhuận độc quyền. Nhờ ưu thế độc quyền nên tổ chức độc quyền không cần cải tiến, phát huy sáng kiến vẫn thu được lợi nhuận cao. Vì vậy làm cho nền kinh tế trì trệ nên độc quyền được Lênin gọi là hiện tượng ăn bám. Thêm vào đó tổ chức độc quyền lại dùng lợi nhuận độc quyền mua ảnh hưởng của chính phủ nhằm bảo vệ lợi ích cho mình,

Thứ tư, tình trạng suy thoái môi trường.

Một khuyết tật khác do sự phát triển kinh tế thị trường đưa lại là sự tàn phá môi trường, làm ô nhiễm bầu không khí, bẩn nguồn nước, tàn phá rừng đầu nguồn, bạc mầu đất đai.. do chạy theo lợi nhuận mà các doanh nghiệp sử dụng cạn kiệt nguồn tài nguyên làm cho môi trường bị ô nhiễm dẫn đến mức độ báo động cho sự bình yên của loài người.

Tất cả các khuyết tật trên do kinh tế thị trường sinh ra nhưng bản thân nó không thể nào khắc phục được. Vì vậy phải có sự tác động từ bên ngoài cơ chế thị trường. Các nhà kinh tế học tìm thấy ở đó vai trò kinh tế của Nhà nước. Điều đó nói lên tầm quan trọng của vai trò kinh tế của nhà nước trong nền kinh tế

thị trường‌

1.2. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và vai trò kinh tế Nhà nước

1.2.1. Đặc điểm của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 58 trang tài liệu này.

nghĩa

Cuộc tranh luận về thuật ngữ “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ

Vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam - 3

nghĩa” đến nay vẫn chưa chấm dứt. Nhưng chúng tôi ủng hộ việc sử dụng thuật ngữ này và ở đây xin nêu lên một số đặc điểm của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa như sau:

Một là, nền kinh tế thị trường ở Việt Nam phải được xây dựng trên cơ sở đa dạng hoá hình thức sở hữu, đa dạng hoá thành phần kinh tế.

Về vấn đề này, chúng tôi muốn trao đổi thêm về phạm trù sở hữu công hữu đối với các tư liệu sản xuất chủ yếu, vấn đề mà hiện nay đang còn có sự giải thích khác nhau.

Về khái niệm, sở hữu là quan hệ giữa người với người về vật, về sản phẩm. Nó chỉ rõ vật, sản phẩm đó là của người này chứ không phải là của người khác. Vì vậy trong nội hàm của nó sở hữu đã bao hàm một sự tách biệt lợi ích. Việc dùng khái niệm “sở hữu toàn dân” là loại trừ sự tách biệt lợi ích, điều đó cũng đồng nghĩa với việc không còn sở hữu. Với ý nghĩa đó, trong điều kiện nước ta hiện nay, nói riêng và có lẽ là trên phạm vi thế giới nói chung, dùng khái niệm này là còn quá sớm. Việc sử dụng khái niệm này áp dụng vào quan hệ sở hữu nào đó trong điều kiện kinh tế còn kém phát triển như hiện nay, sẽ gây ra những tác động ngược chiều với ý định tốt đẹp về sở hữu toàn dân.

Chúng tôi cho rằng, hiện nay ở nước ta có hai chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất là công hữu và tư hữu. Đến lượt nó, công hữu bao gồm 3 hình thức là sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể và sở hữu hỗn hợp, còn chế độ sở hữu tư

nhân bao gồm hình thức sở hữu tư nhân sản xuất lớn và hình thức sở hữu tư nhân sản xuất nhỏ. Theo chúng tôi, các thành phần kinh tế khác nhau dựa trên các hình thức sở hữu khác nhau. Vì vậy, tương ứng với các hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất, nền kinh tế nước ta bao gồm các thành phần kinh tế sau đây:

- Thành phần kinh tế các doanh nghiệp nhà nước hay quốc doanh

- Thành phần kinh tế tập thể hay hợp tác xã

- Thành phần kinh tế hỗn hợp hay tư bản nhà nước

- Thành phần kinh tế tư nhân

- Thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài .

Với cách hiểu như vậy, vấn đề là phải làm sáng tỏ vai trò của thành phần kinh tế các doanh nghiệp nhà nước.

Chúng tôi cho rằng, trong nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta, kinh tế quốc doanh đóng vai trò chủ đạo, các thành phần kinh tế khác cùng với kinh tế quốc doanh là các bộ phận hữu cơ, tất yếu của nền kinh tế, đảm nhận những khâu, những lĩnh vực khác nhau, tạo cho nền kinh tế một sự phối hợp hoàn chỉnh, nhịp nhàng, ăn khớp, hỗ trợ nhau cùng tồn tại bình đẳng và phát triển. Các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp không còn phân biệt với nhau theo kiểu "con đẻ con nuôi", mà chỉ là "con trưởng, con thứ" trong một gia đình có cùng huyết thống. Ở đây, cũng đang còn những băn khoăn cho rằng, kinh tế thị trường có thể phát triển được hay không, nếu kinh tế quốc doanh đóng vai trò chủ đạo?

Như chúng tôi thường dùng hình ảnh, trong một gia đình đông con, tất yếu có con trưởng, con thứ, một nền kinh tế nhiều thành phần tất yếu vai trò của mỗi thành phần khác nhau, có thành phần chủ đạo và có thành phần giữ những vị trí khác. Vấn đề là ở chỗ, thế nào là chủ đạo và ai là chủ đạo?

Hiện nay, ở nước ta còn nhiều ý kiến khác nhau về vấn đề này. Chúng

tôi cho rằng, các doanh nghiệp nhà nước nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, bởi lẽ nó tạo ra hiệu quả kinh tế xã hội cho toàn nền kinh tế thông qua việc cung cấp hàng hoá công cộng và mở đường cho các doanh nghiệp khác phát triển. Song các thành phần kinh tế khác có vai trò sinh lợi cho nền kinh tế quốc dân. Những kết luận này xuất phát từ việc phân tích vai trò của các doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước.

Nghiên cứu vai trò chủ đạo của kinh tế địa chủ trong xã hội phong kiến và, của thành phần kinh tế tư bản trong xã hội tư bản chủ nghĩa, chúng ta thấy rằng, vai trò chủ đạo của một thành phần kinh tế thể hiện ở chỗ tính chất, đặc điểm phương thức tác động của nó tới các thành phần kinh tế khác, từ đó làm thay đổi và xác định phương thức hoạt động của các thành phần kinh tế khác. Chẳng han, khi CNTB phát triển trong nông nghiệp đã làm thay đổi đặc điểm hoạt động của địa tô TBCN so với địa tô phong kiến. Mặc dù vẫn là quyền sở hữu ruộng đất được thực hiện về mặt kinh tế, nhưng phương thức hoạt động và số lượng, chất lượng của địa tô tư bản và địa tô phong kiến là khác nhau. Điều đó có nghĩa, khi thành phần kinh tế tư bản đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế đã làm cho đặc điểm phương thức hoạt động của các thành phần kinh tế khác cũng thay đổi.

Vậy nhân tố nào quyết định tính chất chủ đạo của thành phần kinh tế? Theo chúng tôi, mặt bản chất cốt lõi nhất của một chế độ xã hội quyết định tính chất chủ đạo của nền kinh tế. Trong xã hội tư bản, mặt cốt lõi, bản chất nhất của nó là lợi nhuận, là giá trị thặng dư. Do vậy tính chất chủ đạo của nền kinh tế này thể hiện ở hiệu quả kinh tế, là lợi nhuận. Trong nền kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa, mục tiêu căn bản nhất, như đã nói trên, là bình đẳng xã hội. Vì vậy, tính chất chủ đạo của nền kinh tế này không phải là hiệu quả kinh tế đơn thuần, mà là hiệu quả kinh tế - xã hội của nó. Điều đó thể hiện ở chỗ, trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp nhà nước cũng là một đơn vị sản xuất hàng hoá, song nó có nhiệm vụ mở đường, dẫn dắt, tạo điều kiện

cho các thành phần kinh tế khác phát triển, nó cung cấp những hàng hoá công cộng cho nền kinh tế, nó trở thành một công cụ để nhà nước có thể khắc phục được những khuyết tật của thị trường.

Vậy thành phần kinh tế nào trong nền kinh tế nhiều thành phần của ta có thể đảm nhận được vai trò này? Chúng tôi cho rằng chỉ có thể là thành phần kinh tế quốc doanh, các doanh nghiệp Nhà nước. Tuy nhiên, để đảm nhận được vai trò này, còn nhiều vấn đề chúng ta phải tiếp tục đổi mới, hoàn thiện, sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta.

Đồng thời với sự phát triển các doanh nghiệp nhà nước với vị trí chủ đạo, cần tạo điều kiện để phát huy mọi nguồn lực phát triển của các thành phần kinh tế khác.Theo chúng tôi, sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam không phải là ở chỗ phạm vi sở hữu TLSX của Nhà nước rộng đến đâu, tỷ lệ của nó nhiều đến mức độ nào, mà là ở chỗ phải tìm ra các giải pháp giải phóng được sức sản xuất, huy động tối đa được mọi nguồn lực của toàn dân tộc, của mọi thành phần kinh tế, mọi loại hình sở hữu về tư liệu sản xuất vào công cuộc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Thực tiễn phát triển của nền kinh tế nước ta những năm qua chứng minh cho tầm quan trọng của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Mặc dù còn ở phạm vi nhỏ bé, nhưng các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thể hiện là loại hình doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có hiệu quả kinh tế cao, có khả năng sinh lời cho nền kinh tế. Nếu có một chính sách đúng đắn, Đảng và Nhà nước ta sẽ huy động được sức mạnh của các thành phần kinh tế này vào phát triển đất nước, tạo điều kiện nhanh chóng để có một xã hội dân giàu, nước mạnh.

Hai là, kinh tế thị trường ở Việt Nam phải được xây dựng trên nguyên tắc tự do kinh tế hay tự do cạnh tranh.

Rõ ràng từ thời xa xưa khi bắt đầu xuất hiện kinh tế hàng hoá, các nhà tư tưởng đã nhìn thấy nguyên tắc tự do kinh tế là sợi chỉ đỏ xuyên suốt của

kiểu tổ chức kinh tế xã hội này. Dưới hàng loạt tên gọi khác nhau như "quyền tự nhiên", "trật tự tự nhiên", "bàn tay vô hình" "không can thiệp"... nguyên tắc tự do kinh tế hay tự do cạnh tranh luôn là điều kiện, là môi trường cho nền kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường hoạt động. Nội dung của nguyên tắc này thể hiện thông qua tự do hoạt động kinh doanh, tự do đầu tư sản xuất những mặt hàng nhà nước qui định; Tự do hình thành giá cả theo qui luật cung cầu trên thị trường; Tự do cạnh tranh trong khuôn khổ luật pháp của nhà nước.

Như vậy hiểu tự do kinh tế ở Việt Nam không phải là tự do vô nguyên tắc, vô điều kiện mà tự do có mức độ, có giới hạn, theo qui định của chính phủ và luật pháp của Nhà nước Việt Nam.

Ba là, sự quản lý, điều tiết của nhà nước phải tuân theo những nguyên tắc thích hợp với thị trường.

Theo chúng tôi, vai trò của Nhà nước Việt nam có ý nghĩa quyết định cho tính định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự phát triển của nền kinh tế thị trường ở Việt nam có đúng hướng hay chệch hướng xã hội chủ nghĩa là phụ thuộc vào vai trò định hướng của Nhà nước Việt nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt nam. Tuy nhiên, sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế phải tuân theo những nguyên tắc thích hợp với nguyên tác của thị trường.

Ở đây, cũng còn nhiều vấn đề phải thảo luận để có sự thống nhất.

Chúng tôi cho rằng, Nhà nước ta quản lý nền kinh tế thị trường không phải bằng sự duy ý chí của mình, mà phải tuân theo quy luật của kinh tế thị trường. Những quyết định của Nhà nước phải tương hợp với điều kiện kinh tế thị trường. Điều đó thể hiện ở những điểm sau đây:

- Nhà nước quản lý nền kinh tế thị trường ở Việt Nam trên cơ sở luật pháp, các văn bản dưới luật, những qui định, cấm đoán và sử dụng các công cụ chính sách vĩ mô để dẫn dắt nền kinh tế phát triển một cách hiệu quả, đảm bảo sự bình đẳng và phát triển bền vững. Thông qua qui định và luật pháp,

Nhà nước cho phép các nhà kinh doanh được làm gì, không được làm gì trong nền kinh tế. Thông qua qui định và luật pháp mà xác định rõ lĩnh vực nào hoạt động theo qui luật thị trường, lĩnh vực nào không phải thị trường. Luật pháp qui định những hoạt động cạnh tranh và độc quyền, các hình thức, biện pháp cạnh tranh nào được cho phép, những hình thức, biện pháp nào không được phép, những lĩnh vực nào được phép độc quyền, những lĩnh vực nào không được phép độc quyền, loại độc quyền nào được thừa nhận, loại nào không được thừa nhận.

- Nhà nước là người mở đường trong việc sản xuất và cung ứng những mặt hàng mũi nhọn tăng sức cạnh tranh cho nền kinh tế; sản xuất và cung ứng hàng hoá công cộng cho toàn xã hội.

- Nhà nước thông qua luật pháp và thuế để bảo vệ môi trường, và hướng dẫn các doanh nghiệp trong việc đầu tư vào các lĩnh vực kinh doanh; Nhà nước thông qua chính sách thuế, các chính sách bảo hiểm, trợ cấp để điều hoà thu nhập, khắc phục tình trạng phân hoá bất bình đẳng, đảm bảo sự ổn định cho phát triển kinh tế.

- Nhà nước thông qua việc sử dụng các công cụ chính sách vĩ mô như khối lượng tiền tệ, lãi suất, thuế, đầu tư và chi tiêu chính phủ, các quĩ quốc gia,... để tác động thích ứng vào tầng giai đoạn và thời kỳ phát triển của nền kinh tế, nhằm đảm bảo kích thích tăng trưởng nhanh và phát triển bền vững.

- Nhà nước thông qua việc hoạch định chiến lược kinh tế xã hội và kế hoạch hoá ở tầm vĩ mô để định hướng cho các doanh nghiệp hoạt động và đảm bảo cho nền kinh tế phát triển theo đinhu hướng đã lựa chọn.

Để thực hiện được những chức năng như vậy, cần phải thực hiện đổi mới nền hành chính quốc gia theo kịp với đổi mới cơ chế kinh tế.

Cuối cùng, chúng tôi muốn đề cập một cách khái quát về quan điểm vai trò lãnh đạo của Đảng ta trong điều kiện nền kinh tế thị trường. Chúng ta

thấy, một xã hội nhất định đều có một chính đảng nhất định, tiêu biểu cho chế độ xã hội đó lãnh đạo đất nước. Chủ nghĩa tư bản là một ví dụ điển hình. Dù xã hội này có tồn tại bao nhiêu chính đảng thì vai trò lãnh đạo luôn luôn là của giai cấp tư sản. Dù thời kỳ này là Đảng "Con Voi", thời kỳ kia là Đảng "Con Lừa" thì đó vẫn là các chính đảng đại diện cho phương thức sản xuất Tư bản chủ nghĩa.

Đất nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vậy Đảng nào sẽ lãnh đạo đất nước? Câu trả lời chắn chắn là Đảng cộng sản. Vấn đề là ở chỗ, cũng như Nhà nước, cần đổi mới nhận thức, tiếp tục nâng cao tính Đảng, hoàn thiện tổ chức, nâng cao chất lượng của Đảng viên để phù hợp với nền kinh tế vận hành theo cơ chế kinh tế mới. Có như vậy, sự nghiệp Đổi mới, do Đảng ta khởi xướng, lãnh đạo và tổ chức thực hiện mới thành công.

1.2.2. Nội dung vai trò nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

Quản lý Nhà nước về kinh tế chính là sự tác động của hệ thống quản lý hay chủ thể quản lý (Nhà nước) lên hệ thống bị quản lý hay khách thể quản lý (nền kinh tế) nhằm hướng sự vận hành của nền kinh tế theo các mục tiêu đặt ra. Để thực hiện sứ mạng đó, nhà nước phải có những công cụ chính sách phù hợp trên cơ sở những nguyên tắc chung về sự tác động của nhà nước trong nền kinh tế thị trường, chúng tôi cho rằng, trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhà nước có vai trò chủ yếu sau đây:

Thứ nhất, tạo khuôn khổ lập pháp cho nền kinh tế thị trường hoạt động

Về thực chất chức năng này vượt ra ngoài khuôn khổ của lĩnh vực kinh tế. Vì luật pháp là tổng thể các qui định được đông đảo mọi người thừa nhận và Nhà nước thể chế hoá. Nó không giống như một phương án kinh tế phải tính đến hiệu quả kinh tế. Tuy vậy nó lại có tác dụng quan trọng đối với hoạt động kinh tế.

Các nhà kinh tế học coi luật pháp có vai trò quan trọng cho các nhà kinh doanh hoạt động trên thị trường như một tấm bản đồ cho người đi đường trong thành phố. Qua hệ thống luật pháp, nhà kinh doanh biết được, họ được phép và không được phép làm gì để đảm bảo hoạt động có hiệu quả. Thông qua luật pháp Chính phủ đề ra các qui tắc trò chơi kinh tế mà các doanh nghiệp, người tiêu dùng và bản thân Chính phủ cũng phải tuân thủ. Điều đó bao gồm các qui định về tài sản, các qui tắc về hợp đồng và hoạt động kinh doanh, các trách nhiệm tương hỗ của các liên đoàn lao động, các ban quản lý và nhiều luật lệ để xác định môi trường kinh tế.

Thứ hai, đảm bảo tính hiệu quả của nền kinh tế thị trường

Có nhiều nguyên nhân làm cho tính hiệu quả của nền kinh tế thị trường bị vi phạm. Vì vậy cần đến sự can thiệp kịp thời của nhà nước. Các lĩnh vực can thiệp này là:

- Chống độc quyền, tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng

Như đã biết, thất bại mà thị trường gặp phải làm cho hoạt động của nó không hiệu quả là tình trạng độc quyền. Để chống độc quyền ở các nước đã có những luật lệ; chẳng hạn ở Mỹ có các đạo luật chống Tơrơt, ở CHLB Đức có Uỷ ban chống Cacten. Chúng ta có thể xem xét ví dụ về đạo luật chống Tơrơt ở Mỹ

Đạo luật chống Tơrơt đầu tiên ở Mỹ là đạo luật Sherman (1890), Đạo luật Clayton (1914) và Đạo luật Uỷ ban thương mại Liên bang (1915) cùng với các luật bổ sung thông qua sau đó. Các đạo luật này là cách chủ yếu để Chính phủ đưa ra các chính sách nhằm hạn chế sự lạm dụng có thể có của những doanh nghiệp lớn. Mục đích chủ yếu của việc chống Tơrơt là:

- Cấm các hoạt động phá hoại cạnh tranh như những thoả thuận để định giá hoặc phân chia thị trường, định giá cả, những thoả thuận ràng buộc.

- Chia nhỏ những tổ chức độc quyền có sức mạnh quá lớn trên thị

trường như chiếm phần lớn thị trường và có những hành động chống cạnh tranh như loại trừ đối thủ cạnh tranh.

- Ngăn chặn sự sát nhập các công ty làm giảm cạnh tranh kể cả sát nhập ngang, sát nhập dọc hoặc các kiểu Conglômêrat.

Chính sách chống Tơrơt ở Mỹ có từ hơn 1 thế kỷ nay. Trong những năm 1980 nó tập trung vào mục tiêu nâng cao hiệu quả, bỏ qua mối quan tâm về kiểm soát qui mô của công ty. Hơn nữa, trong nền kinh tế hiện nay, với sự cạnh tranh mạnh mẽ của người sản xuất nước ngoài và các ngành công nghiệp nới bỏ kiểm soát, nhiều người ủng hộ một chính sách chống Tơrơt tập trung vào việc ngăn chặn những thoả thuận có tính kết cấu như việc định giá.

- Chống lại tác động bên ngoài.

Một nhân tố làm giảm hiệu quả của nền kinh tế khác là những tác động bên ngoài, đòi hỏi phải có sự can thiệp của Nhà nước vào lĩnh vực này. Về khái niệm, tác động bên ngoài xảy ra khi một doanh nghiệp hoặc cá nhân tạo ra chi phí lợi ích cho doanh nghiệp khác, hoặc cá nhân khác mà anh ta không phải trả những chi phí đáng ra anh ta phải trả, hoặc không được nhận lợi ích đáng ra anh ta được nhận.

Ví dụ doanh nghiệp A sử dụng tài nguyên hiếm như không khí hay nước sạch mà không phải trả tiền cho những người sống trong không khí ô nhiễm hay nước bẩn. Hoặc doanh nghiệp B đóng ở khu dân cư thuê người bảo vệ doanh nghiệp. Đội quân bảo vệ này hoạt động mạnh đến nỗi bọn lưu manh không dám hành nghề ở vùng này. Như vậy doanh nghiệp B đã tạo ra lợi ích là làm cho dân chúng được sống yên ổn đó mà dân chúng không phải trả tiền cho sự bình yên đó.

Những tác động bên ngoài như vậy làm cho hoạt động kinh tế kém hiệu quả. Để chống lại hiện tượng này chỉ có thể là dựa vào Nhà nước, thông qua luật lệ để điều hành kinh tế như là phương pháp ngăn chặn những tác động

này. Nhờ đó có thể qui định, hạn chế điều chỉnh hoạt động của các doanh nghiệp nhằm bảo vệ nguồn tài nguyên khan hiếm.

Lý thuyết kinh tế hiện đại đã khẳng định thất bại của thị trường trong việc bảo vệ môi trường bắt nguồn từ thực tế là sản xuất tư nhân gây ra tác động tiêu cực đối với môi trường, và chi phí xã hội không được phản ánh đầy đủ vào chi phí sản xuất nếu chỉ thông qua các lực lượng thị trường. Do đó, lượng ô nhiễm luôn có khuynh hướng vượt quá mức “tối ưu” hoặc các nguồn tài nguyên thiên nhiên có thể bị khai thác quá mức, làm giảm tiềm năng tăng trưởng trong tương lai. Như vậy, tăng trưởng cao hiện tại chưa hẳn là đáng mong muốn bởi vì chất lượng cuộc sống thực ra có thể không được cải thiện nếu như phúc lợi vật chất có được từ tăng trưởng cao hơn không đủ bù đắp cho tổn hại do môi trường sinh thái bị huỷ hoại; hoặc là mức sống cao hơn của các thế hệ hiện tại được đánh đổi bằng phúc lợi thấp hơn của các thế hệ t- ương lai. Khi đó chúng ta không thể nói đến tăng trưởng bền vững, và càng không thể nói đến phát triển bền vững được. Nhà nước có thể can thiệp bằng các biện pháp hành chính hoặc kinh tế để khắc phục thất bại này của thị tr- ường. Nhiều nghiên cứu cho thấy ban đầu mức ô nhiễm môi trường có khuynh hướng tăng trong quá trình công nghiệp hoá, sau đó đến một trình độ phát triển kinh tế nhất định, xã hội đã tích luỹ được đủ nguồn lực để thực hiện cải tạo môi trường và áp dụng các biện pháp sản xuất thân thiện với thiên nhiên (đòi hỏi công nghệ cao và chi phí cao hơn, cái chỉ có thể đạt được ở một trình độ phát triển nhất định), thì mức ô nhiễm bắt đầu sẽ giảm. Điều này gợi ra rằng nước ta có thể phải chấp nhận một sự hy sinh nhất định về môi trường trong những năm trước mắt, còn bảo vệ môi trường nhằm phát triển bền vững là mục tiêu lâu dài, nhất quán.

Thực tế phát triển hiện nay không chỉ trên tầm quốc gia mà trên phạm vi toàn cầu đã khẳng định, để có thể duy trì tăng trưởng bền vững ở mức cao,

Nhà nước phải quyết liệt hơn trong việc xây dựng hệ thống luật lệ và quy định để bảo vệ môi trường.

- Một vấn đề khác để đảm bảo tính hiệu quả của nền kinh tế là chính phủ phải sản xuất ra những hàng hoá công cộng.

Trong lý thuyết kinh tế, người ta phân biệt hàng hoá tư nhân và hàng hoá công cộng.

Hàng hoá tư nhân là một hàng hoá mà nếu người này tiêu dùng sẽ triệt tiêu tiêu dùng của người khác. Ví dụ, lương thực, thực phẩm, giầy dép, quần áo

...

Hàng hoá công cộng là hàng hoá mọi người đều có thể tiêu dùng. Ví dụ: không khí, đường sá, quốc phòng là những hàng hoá công cộng.

Về đặc điểm, hàng hoá công cộng là những hàng hoá mà: 1/ Về mặt kỹ thuật một người tiêu dùng không làm giảm số lượng sẵn có đối với người khác. Và 2/ Không thể loại trừ bất cứ ai ra khỏi việc tiêu dùng này, trừ khi phải trả giá quá đắt.

Việc đánh giá ích lợi của hàng hoá công cộng đối với tư nhân và xã hội rất khác nhau. Đối với tư nhân, nhìn chung hàng hoá công cộng có lợi ích giới hạn rất thấp. Điều đó có nghĩa là đầu tư vào loại hàng hoá này thu lợi nhuận ít, có thể gặp nguy hiểm và cũng có những loại hàng hoá công cộng tư nhân không được phép sản xuất. Vì vậy nói chung tư nhân không muốn sản xuất hàng hoá công cộng. Song đối với xã hội, hàng hoá công cộng lại có ích lợi giới hạn lớn. Hay nói cách khác là nó mang lại hiệu quả kinh tế xã hội cao. Ví dụ nếu tư nhân đầu tư vào xây dựng đường sá thì vốn lớn, thời gian thu hồi vốn lâu nên lợi nhuận thấp. Nhưng để phát triển kinh tế xã hội đòi hỏi phải có hệ thống cơ sở hạ tầng. Điều này A. Smith đã nhìn thấy ở thế kỷ XVIII. Hoặc là đầu tư vào nghiên cứu khoa học đối với tư nhân có thể gặp nguy hiểm vì việc nghiên cứu có thể mang lại kết quả, cũng có thể không. Khi không mang

lại kết quả thì đầu tư đó sẽ là vô ích. Song đối với nền kinh tế nếu không có đầu tư nghiên cứu phát triển khoa học kỹ thuật, không có phát minh sáng kiến thì không có một nền kinh tế phát triển được. Hoặc trong nền kinh tế, quốc phòng cũng được coi là hàng hoá công cộng vì sản phẩm của nó là nền hoà bình mọi người đều được hưởng. Song không có một nước nào lại duy trì một đội quân tư nhân, mà đội quân bao giờ cũng là của Nhà nước.

Cuối cùng để đảm bảo tính hiệu quả, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển Chính Phủ phải xây dựng hệ thống thuế. Trên thực tế, phần chi phí của Chính Phủ phải được bù đắp bằng số thuế thu được. Tất cả mọi người phải tuân theo luật thuế. Sự thực, toàn bộ công dân một nước phải tự mình đặt gánh nặng thuế khoá lên vai mình và mỗi công dân cũng được hưởng phần hàng công cộng do Chính Phủ cung cấp. Thông qua hệ thống thuế cao hay thấp mà Chính phủ khuyến khích sản xuất những ngành này, hạn chế sản xuất ngành khác, nhằm hướng các doanh nghiệp đáp ứng yêu cầu của Nhà nước.

Rõ ràng từ thời xa xưa khi bắt đầu xuất hiện kinh tế hàng hoá, các nhà tư tưởng đã nhìn thấy nguyên tắc tự do kinh tế là sợi chỉ đỏ xuyên suốt của kiểu tổ chức kinh tế xã hội này. Dưới hàng loạt tên gọi khác nhau như "quyền tự nhiên", "trật tự tự nhiên", "bàn tay vô hình" "không can thiệp"... nguyên tắc tự do kinh tế hay tự do cạnh tranh luôn là điều kiện, là môi trường cho nền kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường hoạt động. Nội dung của nguyên tắc này thể hiện thông qua tự do hoạt động kinh doanh, tự do đầu tư sản xuất những mặt hàng nhà nước qui định; Tự do hình thành giá cả theo qui luật cung cầu trên thị trường; Tự do cạnh tranh trong khuôn khổ luật pháp của nhà nước.

Như vậy hiểu tự do kinh tế ở Việt Nam không phải là tự do vô nguyên tắc, vô điều kiện mà tự do có mức độ, có giới hạn, theo qui định của chính phủ và luật pháp của Nhà nước Việt Nam.

Thứ ba, đảm bảo sự bình đẳng xã hội

Chủ nghĩa xã hội là một xã hội mà ở đó, dân giàu, nước mạnh, xã hội bình đẳng và văn minh. Trong các chuẩn mực đó, bình đẳng xã hội là vấn đề cốt lõi.

Ngay trong điều kiện hoạt động hoàn hảo nhất của nó, nền kinh tế thị trường đã tạo ra sự bất bình đẳng. Song nguyên nhân nào gây ra bất bình đẳng và bằng cách nào để khắc phục nó thì có nhiều cách lý giải khác nhau.

Về nguyên nhân bất bình đẳng có thể nêu lên có nhiều nhân tố:

Trước hết là sự khác nhau về của cải do sự khác nhau về sở hữu tài sản. Quá trình tích luỹ tư bản làm phân hoá người giàu và người nghèo. Nhiều người giàu lên do quyền sở hữu tài sản của ông cha tích luỹ được nhiều năm, dẫn đến sự phân hoá.

Nhân tố khác dẫn đến sự phân hoá do khác nhau về khả năng của mỗi cá nhân, do yếu tố bẩm sinh mà nhiều người có khẳ năng kinh doanh có thể từ hai bàn tay trắng trở nên giàu có.

Thêm vào đó, một nguyên nhân khác dẫn đến sự phân hoá là do sự khác nhau về giáo dục và đào tạo. Rõ ràng những người được hưởng nền giáo dục, đào tạo, nhất là đào tạo kinh doanh và nghề nghiệp sẽ có điều kiện sẽ kiếm được thu nhập nhiều hơn những người khác.

Ngoài ra còn nhiều nhân tố khác...

Để khắc phục tình trạng bất bình đẳng có nhiều phương án giải quyết. Các nhà kinh tế học hiện đại đề cao vai trò của Nhà nước trong việc sử dụng chính sách thuế luỹ tiến và thanh toán chuyển nhượng.

Thuế luỹ tiến được áp dụng để đánh vào thu nhập cá nhân. Người càng có thu nhập cao càng phải đóng góp nhiều hơn vào Ngân sách Nhà nước. Nhờ đó điều tiết một phần thu nhập của người giầu được đưa vào ngân sách vào để giải quyết những vấn đề phát triển.

Đồng thời Chính phủ lấy một phần từ Ngân sách Nhà nước chi cho các

khoản thanh toán chuyển nhượng như trợ cấp, bảo hiểm để đảm bảo cho những người thất nghiệp, những người gặp khó khăn không nơi nương tựa...có được những khoản thu nhập nhất định để đảm bảo mức sống bình thường, tạo cho họ có điều kiện để có thể tìm một việc làm mới, hoặc đủ sống những năm còn lại của cuộc đời.

Thứ tư, Nhà nước thực hiện vai trò điều chỉnh, ổn định kinh tế vĩ mô thông qua các chính sách vĩ mô và quy hoạch, kế hoạch phát triển

Điều chỉnh chu kỳ kinh tế là Nhà nước sử dụng các công cụ chính sách vĩ mô tác động một cách thích hợp vào các giai đoạn của chu kỳ kinh tế nhằm rút ngắn thời gian nền kinh tế bị khủng hoảng, tiêu điều, kéo dài thời kỳ nền kinh tế phục hồi, hưng thịnh.

Các công cụ chính sách vĩ mô mà Nhà nước sử dụng thường là khối lượng tiền tệ, đầu tư Nhà nước, lãi xuất, thuế, thanh toán chuyển nhượng. Những công cụ này được sử dụng tăng lên hay giảm đi vào mỗi thời kỳ thích hợp của chu kỳ kinh tế để thúc đẩy hoặc hạn chế tốc độ đầu tư, tăng trưởng kinh tế. Từ đó, làm ổn định tình hình kinh tế chống khủng hoảng, thất nghiệp, lạm phát.

Thông qua khối lượng tiền tệ, Chính phủ điều tiết tăng hay giảm mức cung tiền tệ trong nền kinh tế, qua chính sách đầu tư Nhà nước, Chính phủ tăng đầu tư trong thời kỳ nền kinh tế bị khủng khoảng tiêu điều để khuyến khích sự phục hồi và giảm đầu tư Nhà nước cho nền kinh tế đỡ nóng trong giai đoạn phục hồi và hưng thịnh. Qua chính sách thuế, lãi suất Chính phủ điều tiết tiêu dùng, đầu tư tư nhân, khuyến khích hoặc hạn chế kinh doanh của họ. Những khoản thanh toán chuyển nhượng của Chính phủ có tác dụng ổn định tình hình kinh tế xã hội, đặc biệt trong điều kiện khủng hoảng kinh tế.

1.3. Kinh nghiệm về vai trò Nhà nước trong nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa ở Trung Quốc

Sau nhiều năm thực hiện phát triển kinh tế theo mô hình kế hoạch hoá

Xem tất cả 58 trang.

Ngày đăng: 15/04/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí