Vai Trò Nhà Nước Trong Việc Xây Dựng Hệ Thống Luật Pháp Cho Nền Kinh Tế Thị Trường Định Hướng Xã Hội Chủ Nghĩa Ở Nước Ta

tập trung, đến cuối những năm 1970 ở Trung Quốc, kinh tế thị trường vẫn là một vấn đề mới mẻ. Do vậy, trong quá trình xây dựng và phát triển, Trung Quốc đã phải trải qua nhiều giai đoạn tìm tòi, thử nghiệm, từng bước hình thành dần dần nền kinh tế thị trường. Có thể thấy quá trình chuyển sang kinh tế thị trường ở Trung Quốc trải qua các bước chính như sau:

Bước thứ nhất, sau Hội nghị Trung ương 3 khoá XI (12/1978), nhận thức của các giới chức Trung Quốc đã có sự thay đổi và từng bước thoát ra khỏi quan niệm truyền thống cho rằng kinh tế thị trường là riêng có của chủ nghĩa tư bản, kế hoạch hoá tập trung mới là đặc trưng của chủ nghĩa xã hội.

Tại Đại hội Đảng Cộng sản (ĐCS) Trung Quốc khóa XII (1982), Trung Quốc đã đưa ra một khái niệm mới - kết hợp kinh tế kế hoạch với điều tiết thị trường, trong đó kinh tế kế hoạch là chính, điều tiết thị trường là phụ. Đến Hội nghị Trung ương 3 khoá XII (10/1984), Trung Quốc đã thông qua quyết định “Cải cách thể chế kinh tế”, xây dựng nền kinh tế hàng hoá có kế hoạch trên cơ sở chế độ công hữu.

Bước thứ hai, tại Đại hội ĐCS khoá XIII (10/1987) Trung Quốc đã đề ra việc xây dựng thể chế kinh tế hàng hoá có kế hoạch XCHN trong đó có sự thống nhất giữa kế hoạch và thị trường. Tại đây, lần đầu tiên Trung Quốc đưa ra lý luận về giai đoạn đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội, coi nền kinh tế Trung Quốc là nền kinh tế hàng hoá có kế hoạch trên cơ sở chế độ công hữu. Trong đó yêu cầu phát triển nền kinh tế nhiều thành phần dưới tiền đề “lấy chế độ công hữu làm chủ thể”, khuyến khích một bộ phận dân cư giàu lên trước bằng cách lao động giỏi và kinh doanh hợp pháp, theo mục tiêu cùng nhau giàu có.

Bước thứ ba, Đại hội XIV ĐCS Trung Quốc (10/1992) đưa ra khái niệm “Kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa” trong đó khẳng định thể chế kinh tế hàng hoá có kế hoạch xã hội chủ nghĩa là thể chế thống nhất giữa kế hoạch và thị trường, thay cho khái niệm “kinh tế hàng hoá” của Đại hội XIII.

Nền kinh tế thị trường XCHN mang đặc sắc Trung Quốc chính là phát triển kinh tế thị trường ở nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa, là sự kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế nhanh với việc bảo đảm công bằng xã hội. Việc từ bỏ kinh tế kế hoạch, chuyển sang thực hiện kinh tế thị trường chính là vì kinh tế thị trường cho phép phân bổ các nguồn lực khan hiếm của xã hội hiệu quả hơn. Nhưng trong quá trình vận hành, kinh tế thị trường làm nảy sinh nhiều vấn đề, trong đó có sự xung đột giữa thực hiện công bằng xã hội với tăng trưởng kinh tế nhanh. Giải quyết mâu thuẫn này chính là mục tiêu của mô hình kinh tế thị trường XCHN mà Trung Quốc đã và đang theo đuổi.

Tư tưởng chủ đạo của mô hình quản lý Nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở Trung Quốc là "Chính phủ nhỏ, xã hội lớn."

"Chính phủ nhỏ" có nghĩa là Chính phủ, Nhà nước chỉ tập trung vào những công việc then chốt, có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển ổn định, có hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế, chứ không ôm đồm, làm những việc mà thị trường vận hành có hiệu quả hơn. Những công việc mà Chính phủ, Nhà nước phải làm là: xây dựng chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của đất nước; quy hoạch phát triển các vùng, các ngành nghề; ban hành khung pháp lý và các chính sách kinh tế, đặc biệt là các chính sách tài chính, tiền tệ; tham gia và tổ chức cung cấp các dịch vụ hạ tầng cơ sở kinh tế - xã hội; giám sát, kiểm tra các hoạt động kinh tế; bảo đảm các điều kiện cho việc hình thành và hoàn thiện thể chế thị trường, ...

Đối với các doanh nghiệp thuộc mọi loại hình sở hữu, Nhà nước thực hiện các biện pháp quản lý vĩ mô mà không can thiệp trực tiếp vào các hoạt động kinh doanh. Đối với các doanh nghiệp Nhà nước, Trung Quốc thực hiện quản lý theo phương châm “nắm lớn, bỏ nhỏ”. Nhà nước chỉ “nắm”, quản lý những xí nghiệp lớn, những xí nghiệp hoạt động trong một số lĩnh vực quan trọng có liên quan đến quốc kế dân sinh, còn lại chủ yếu để cho thị trường tự

điều tiết, Nhà nước chỉ can thiệp thông qua các chủ trương, các định hướng chung và các công cụ thị trường.

“Xã hội lớn” là phát huy mạnh mẽ quyền tự do kinh doanh của toàn dân, quyền tự chủ, sự tự trị và tự quản lý của các doanh nghiệp.

Thực tế cho thấy, việc thực hiện phương châm “Chính phủ nhỏ, xã hội lớn” đã giảm bớt được sự cồng kềnh trọng bộ máy quản lý Nhà nước ở các cấp, tinh giản biên chế công chức, thực hiện tách dần các chức năng giữa Đảng và Nhà nước, giữa chính quyền và xí nghiệp.

Sau hơn 20 năm cải cách, mở cửa, chuyển từ kinh tế tập trung sang kinh tế thị trường, Trung Quốc đã thu được những thành tựu rực rỡ. Trung Quốc có mức tăng trưởng kinh tế đứng hàng đầu thế giới. Trong vòng 21 năm (1979 - 2000) tổng giá trị sản phẩm quốc nội của Trung Quốc (GDP) tăng trưởng bình quân mỗi năm 9,8%. Hiện nay, Trung Quốc đã trở thành một cường quốc về kinh tế với GDP đứng thứ 6 trên thế giới. Nhiều loại sản phẩm quan trọng Trung Quốc đứng hàng đầu thế giới về sản lượng. Ngoài hai mặt hàng là than và vải Trung Quốc luôn luôn đứng đầu thế giới, còn 8 mặt hàng khác đứng từ thứ hai đến thứ 16 trước khi cải cách nay đã vươn lên đứng đầu thế giới như: ngũ cốc, bông, hạt có dầu, thịt lợn, bò, cừu, thép, quần áo, xi măng, máy truyền hình. Trung Quốc đã tiến nhanh trên con đường xây dựng một nền kinh tế thị trường XCHN mang đặc sắc Trung Quốc theo hướng mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt.

Bên cạnh những thành tựu nổi bật, Trung Quốc vấp phải nhiều khó khăn, nhiều mâu thuẫn như chất lượng và hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế quốc dân chưa cao, cơ cấu kinh tế còn chưa hợp lý; doanh nghiệp quốc hữu kinh doanh kém hiệu quả; các hiện tượng tham nhũng, xa hoa lãng phí còn tràn lan; tệ quan liêu, chủ nghĩa hình thức, làm ăn bịp bợm giả dối còn khá nghiêm trọng; quan hệ phân phối thu nhập vẫn chưa được xử lý thoả đáng,

chênh lệch về mức sống và tốc độ phát triển giữa các vùng vẫn còn rõ rệt; tăng dân số và tốc độ phát triển kinh tế đang tạo ra sức ép to lớn đối với nguồn tài nguyên và môi trường.

Thực tiễn 20 năm cải cách và mở cửa của Trung Quốc cũng là 20 năm thể nghiệm một chế độ quản lý mới đối với nền kinh tế chuyển đổi. Sự thành công và chưa thành công của chế độ ấy có thể giúp ta rút ra các bài học kinh nghiệm về quản lý kinh tế sau đây:

- Xác định rõ mục tiêu, chức năng, đối tượng quản lý Nhà nước về kinh tế.

- Hoàn chỉnh hệ thống pháp luật về kinh tế.

- Đổi mới các chính sách kinh tế vĩ mô nhằm ổn định kinh tế vĩ mô, khuyến khích tăng trưởng và thực hiện công bằng xã hội.

- Tạo điều kiện cho các cực phát triển vượt lên nhanh chóng để hỗ trợ và lôi kéo toàn bộ nền kinh tế phát triển.

- Thực hiện chuyển đổi cơ cấu kinh tế ở mọi địa bàn, mọi cấp, ngay từ từng thôn xã.

- Chia cấp độ thị trường để phát triển đa dạng hàng hoá có phẩm cấp và chủng loại khác nhau đáp ứng nhu cầu mọi tầng lớp người tiêu dùng.

Trên đây chúng ta thấy có nhiều quan điểm khác nhau về vai trò của quản lý Nhà nước về kinh tế trong nền kinh tế thị trường: có quan điểm đề cao vai trò của Nhà nước, ngược lại, có quan điểm đánh giá thấp vai trò của Nhà nước. Mặc dù vậy, giữa các quan điểm khác nhau này người ta vẫn có thể nhận thấy những điểm tương đồng quan trọng, đó là cần phải có sự phối hợp giữa bàn tay hữu hình của Nhà nước với bàn tay vô hình của thị trường. Nhà nước và thị trường có mối quan hệ bổ sung cho nhau vì sự phát triển, chứ không loại trừ lẫn nhau để dẫn tới thất bại, khủng hoảng, trì trệ và tụt hậu. Điều đã trở nên rõ ràng và có thể khẳng định được là Nhà nước đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, Nhà nước không thể

thay thế, càng không thể loại bỏ thị trường. Nhà nước và thị trường luôn cùng tồn tại và phát triển. Mọi sự thái quá về bất kể phía nào - dù là thái quá về phía Nhà nước hay về phía thị trường - đều dẫn đến thất bại, nếu đó không phải là thất bại thị trường, thì chắc chắn cũng là thất bại của Chính phủ. Chính xuất phát từ cách nhìn như vậy mà nhiều nhà nghiên cứu đã đưa ra lời khuyên rằng dù là kiểu Nhà nước nào, thì để đạt được hiệu quả, cách tốt nhất mà một Nhà nước nên làm là thực hiện những chính sách, biện pháp nhằm "tạo lập thị trường", chứ không phải triệt phá thị trường, hay "khuyến khích thị trường hơn là ngăn cấm thị trường".

Chương 2

VAI TRÒ KINH TẾ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP‌

2.1. Thực trạng vai trò kinh tế của Nhà nước ở Việt Nam hiện nay

2.1.1. Vai trò nhà nước trong việc xây dựng hệ thống luật pháp cho nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta

Trong thời kỳ kế hoạch hoá tập trung, Nhà nước quản lý kinh tế chủ yếu bằng công cụ kế hoạch. Khi chuyển sang quản lý nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, việc ban hành khung khổ pháp luật cho sự hoạt động của nền kinh tế chuyển đổi này trở thành một đòi hỏi vừa rất cấp bách trước mắt, vừa rất cơ bản lâu dài, trong đó có những thứ có thể sửa đổi, bổ sung từ hệ thống pháp luật đã có mặc dù rất ít (như Hiến pháp), có những thứ (số này chiếm đại bộ phận) hoàn toàn mới, phải làm từ đầu, chưa có tiền lệ (như Luật đầu tư nước ngoài).

Do Nhà nước Việt Nam được tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ, trong đó quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp nên hệ thống luật pháp trong nền kinh tế thị trường ở nước ta cũng được ban hành với nhiều thể loại khác nhau, trong đó có những vấn đề do Quốc hội ban hành dưới hình thức văn bản Hiến pháp, Luật (hoặc bộ Luật), Pháp lệnh, có những vấn đề do Chính phủ ban hành dưới các hình thức văn bản Nghị quyết và Nghị định Chính phủ, Quyết định và Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ, quyết định và thông tư của Bộ trưởng, có những vấn đề do Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân ban hành dưới các hình thức văn bản Nghị quyết của Hội đồng nhân dân, Quyết định và Chỉ thị của Uỷ ban nhân

dân.

* Giai đoạn đổi mới trong khi Hiến pháp 1980 vẫn còn hiệu lực thi

hành (1986-1991).

Đặc điểm quan trọng nhất của giai đoạn này là nhiều chủ trương, chính sách Đổi mới của Đảng được Nghị quyết Đại hội VI xác định đã vượt ra khỏi khuôn khổ của Hiến pháp năm 1980 nhưng Hiến pháp này vẫn chưa được sửa đổi kịp thời. Do có độ trễ này, quản lý nhà nước về kinh tế mặc dù đã có nhiều cố gắng trong đổi mới tổ chức, quản lý, điều hành, nhưng không vực dậy được nền kinh tế đang đà suy thoái. Tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế năm 1987 giảm xuống còn 3,4%, năm 1988 tăng lên đạt 4,6%, năm 1989 lại giảm xuống còn 2,7%, năm 1990 chỉ tăng có 2,3%. Thực trạng đổi mới pháp luật kinh tế trong giai đoạn này nổi lên các vấn đề sau:

Do Hiến pháp (1980) chưa được sửa đổi nên trong giai đoạn này, cơ chế quản lý chưa có căn cứ pháp lý để thay đổi so với trước đổi mới. Trong giai đoạn 1986-1991, điều có ý nghĩa lớn nhất của hoạt động lập pháp là việc Quốc hội ban hành "Luật Đầu tư nước ngoài" vào năm 1987. Đây là một văn bản luật không chỉ thể hiện quyết tâm về mặt đổi mới nói chung mà còn là cách chọn một đột phá khẩu về mặt mở cửa nói riêng của Việt Nam ngay từ năm đầu của công cuộc chuyển đổi.

Để bù vào khoảng trống do chậm sửa đổi, bổ sung Hiến pháp (1980), Bộ Chính trị có khi đã phải ra chỉ thị, nghị quyết chỉ đạo thực hiện chủ trương đổi mới, trong số đó, điển hình là Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị (ngày 5 - 4

- 1988) về chính sách khoán trong nông nghiệp.

Các cơ quan của Chính phủ và thuộc Chính phủ trong giai đoạn 1986 - 1991 đã được huy động cao độ vào việc nghiên cứu hoạch định hệ thống thể chế, chính sách của thời kỳ đổi mới theo Nghị quyết Đại hội VI. Mặc dù văn bản qui phạm pháp luật về đổi mới quản lý kinh tế chưa ban hành được bao nhiêu, nhưng trong giai đoạn này Chính phủ đã triển khai nghiên cứu hàng

loạt dự án luật, pháp lệnh, nghị định để phục vụ cho việc ban hành trong giai đoạn sau.

Trong công tác quản lý điều hành giai đoạn 1986 - 1991, Chính phủ tập trung vào chỉ đạo giải quyết những diễn biến phức tạp của thâm hụt ngân sách, của bất ổn về giá cả, của sự trượt giá đồng tiền Việt Nam so với đô la Mỹ và các ngoại tệ mạnh khác (những công việc này hồi đó qui tụ và gọi là chống lạm phát). Nếu chỉ số giá bình quân năm 1986 (so với năm 1985) đã được hạ xuống chỉ còn ở mức 167,5% vào năm 1991 thì phải thừa nhận rằng Chính phủ đã thành công trên nhiều phương diện về chống lạm phát trong giai đoạn này. Thành tựu đạt được về chống lạm phát đã tạo ra một trong những căn cứ quan trọng hàng đầu để Việt Nam tiếp tục thực hiện công cuộc đổi mới trong giai đoạn sau.

* Giai đoạn từ Hiến pháp 1992 đến nay.

Đặc điểm quan trọng nhất của đổi mới pháp luật kinh tế giai đoạn này là đã ban hành và đưa vào thực hiện một hệ thống luật pháp theo yêu cầu xây dựng thể chế của nền kinh tế thị trường dựa trên các quan điểm của Việt Nam được xác định tại Đại hội VI và hoàn thiện dần qua các kỳ Đại hội VII, VIII, IX của Đảng. Thực trạng đổi mới pháp luật kinh tế giai đoạn này nổi lên các vấn đề sau:

- Sửa đổi Hiến pháp năm 1980, ban hành Hiến pháp sửa đổi năm 1992, trong đó về chế độ kinh tế:

Hiến pháp 1992 thừa nhận sở hữu tư nhân là 1 trong 3 chế độ sở hữu hợp pháp trong nền kinh tế (Hiến pháp 1980 không có sự thừa nhận này).

Hiến pháp 1992 thừa nhận 5 thành phần kinh tế: Kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước (Hiến pháp 1980 chỉ thừa nhận 2 thành phần là kinh tế quốc doanh, kinh tế hợp tác xã).

Hiến pháp 1980 qui định Nhà nước giữ độc quyền về ngoại thương và

mọi quan hệ kinh tế khác với nước ngoài. Điều này đã không còn giữ lại trong Hiến pháp 1992.

Hiến pháp 1980 khẳng định "Nhà nước lãnh đạo nền kinh tế quốc dân theo kế hoạch thống nhất". Điều này đã được sửa đổi trong Hiến pháp 1992, theo đó" Nhà nước thống nhất quản lý nền kinh tế quốc dân bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách".

Cùng với những sửa đổi khác, việc sửa đổi những qui định của Hiến pháp về chế độ kinh tế trên đây đã tạo ra những căn cứ pháp lý cao cho phát triển kinh tế thị trường, đồng thời cũng đặt nền tảng pháp lý cho việc đổi mới quản lý nhà nước về kinh tế.

- Ban hành theo qui định của Hiến pháp 1992 những bộ luật, luật, pháp lệnh để quản lý nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi.

Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung trước đổi mới quản lý của Nhà nước về kinh tế chủ yếu dựa vào hệ thống kế hoạch hoá, vai trò của hệ thống luật trong lĩnh vực này rất thấp. Khi thực hiện công cuộc đổi mới, việc quản lý nhà nước về kinh tế không chỉ chủ yếu dựa vào công cụ kế hoạch mà còn dựa vào công cụ pháp luật. Tuy nhiên, trên thực tế, mặc dù quá trình đổi mới để chính thức bắt đầu từ năm 1986, nhưng phải sau khi ban hành Hiến pháp 1992 thì việc làm luật mới thực sự trở thành một hoạt động quan trọng hàng đầu của cơ quan quyền lực nhà nước tối cao (Quốc hội). Từ năm 1992 đến nay, Nhà nước đã ban hành hàng loạt văn bản luật, bộ luật, pháp lệnh phục vụ cho công cuộc đổi mới nói chung và cho quản lý nhà nước về kinh tế nói riêng, trong đó quan trọng là Bộ luật lao động (1995), Bộ luật dân sự (1996), Luật doanh nghiệp nhà nước (1995), Luật ngân sách nhà nước (1996), Luật hợp tác xã (1996), Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam (1997), Luật các tổ chức tín dụng (1997), Luật thương mại (1997), Luật thuế giá trị gia tăng (1997), Luật thuế thu nhập doanh nghiệp (1997), Luật khuyến khích đầu tư

trong nước (1998), Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật đất đai (1998), Luật doanh nghiệp (1999), Luật kinh doanh bảo hiểm (2001), Luật hải quan (2001), Pháp lệnh bảo hộ quyền tác giả (1994), Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động (1996), Pháp lệnh bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (1999), pháp lệnh phí và lệ phí (2001), Pháp lệnh giá (2002), Luật thuỷ sản (2003), Luật xây dựng (2003), Luật cạnh tranh (2004), Luật Điện lực (2004), Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng Nhân dân và Uỷ ban Nhân dân (2004), ...

Tóm lại, nếu như trong những năm trước đổi mới, vấn đề quản lý bằng hệ thống luật pháp chưa được coi trọng đầy đủ, thì từ khi chuyển sang cơ chế thị trường nhà nước ta từng bước tập trung xây dựng hệ thống luật pháp cho nền kinh tế thị trường hoạt động. Đến nay, nhà nước ta đã xây dựng được khá nhiều luật nhất là trong nhiệm kỳ Quốc hội khoá IX, Khoá X đã thông qua được những bộ luật lớn như luật dân sự, luật thương mại... Điều đó từng bước tạo ra khuôn khổ cho doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh trong điều kiện nền kinh tế thị trường.

2.1.2. Vai trò nhà nước trong việc đổi mới các thành phần kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế

Để chuyển sang nền kinh tế thị trường, nhà nước phải thực hiện tái cơ cấu nền kinh tế, trong đó phải tái cơ cấu khu vực doanh nghiệp và các ngành kinh tế.

Thứ nhất, tái cơ cấu khu vực doanh nghiệp

Như đã nói trước năm 1986, nền kinh tế Việt Nam về cơ bản dựa trên cơ sở thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa với hai hình thức quốc doanh và hợp tác xã. Từ năm 1986 chủ trương của Đảng là phát triển nền kinh tế nhiều thành phần gồm khu vực quốc doanh, khu vực tập thể và các thành phần kinh tế khác như tiểu sản xuất hàng hoá, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà

nước dưới nhiều hình thức. Trong văn kiện Đại hội X Đảng ta đã nêu lên nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta gồm có thành phần kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.

Sự phát triển của nền kinh tế nhiều thành phần đã thúc đẩy nền sản xuất có bước phát triển mạnh mẽ. Chủ trương"Khoán hộ" trong nông nghiệp từ những ngày đầu đổi mới đã làm cho sản xuất nông nghiệp "bung ra" từ chỗ thiếu lương thực đến chỗ an toàn lương thực và có xuất khẩu.

Trong lĩnh vực công nghiệp với sự tham gia của nhiều thành phần sức cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nền kinh tế tăng lên. Đặc biệt đối với khu vực xí nghiệp quốc doanh, từng bước thực hiện việc sắp xếp lại, cải tiến đổi mới kỹ thuật sản xuất để thích ứng với điều kiện hoạt động mới.

Lĩnh vực thương mại dịch vụ với cơ cấu nhiều thành phần trong những năm đổi mới thực sự hoạt động sôi động. Tự do thương mại, tự do lưu thông, tự do đầu tư vào các lĩnh vực kinh tế nói chung và thương mại dịch vụ nói riêng đã làm thay đổi tỷ trọng của lĩnh vực thương mại dịch vụ trong cơ cấu GDP của đất nước.

Nhìn chung trong những năm đổi mới, các thành phần kinh tế ngày càng được xây dựng, củng cố và phát triển.

Bảng 2: Cơ cấu thành phần kinh tế trong GDP

1998

2000

2001

2005

2006

GDP

100,0

100,0

100,0

100,0

100,0

Khu vực nhà nước

55,5

59,1

59,8

52,2

50,1

Khu vực ngoài quốc doanh

23,7

22,9

22,6

32,1

33,6

Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài

20,8

17,3

17,6

15,7

16,3

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 58 trang tài liệu này.

Vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam - 4

Nguồn: TCTK; Thời báo kinh tế việt nam: Kinh tế 2005-2006 Việt nam thế giới.

Hai là, sức sản xuất có bước phát triển mới nhờ có sự đẩy mạnh phân công lao động xã hội.

Những năm đổi mới cũng là những năm đẩy mạnh phân công lại lao động xã hội. Để điều chỉnh những sai lầm do chủ quan, nóng vội, muốn đẩy mạnh công nghiệp hoá với qui mô lớn, tốc độ cao, hướng vào các ngành công nghiệp nặng, bắt đầu từ những đại hội V, VI. Đảng và Nhà nước Việt Nam chủ trương chuyển hướng đầu tư, công nghiệp hoá vào việc phát huy lợi thế của đất nước là nguồn lao động, đất đai rừng biển. Chiến lược phát triển ưu tiên cho nông nghiệp, công nghiệp hàng tiêu dùng, hàng chế biến và xuất khẩu được áp dụng đã dẫn đến phân công lại lao động xã hội giữa các ngành, cũng như giữa các vùng chiến lược trên phạm vi cả nước.

Phân công lại lao động xã hội cũng làm thay đổi cơ cấu lao động, ngành nghề giữa sản xuất, tiêu dùng nội địa và sản xuất hàng xuất khẩu. Chủ trương đa dạng hoá trong xuất nhập khẩu làm tăng cường hoạt động của lĩnh vực này, nâng dần tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu trong GDP.

Tất cả những biến đổi đó làm cho cơ cấu kinh tế của đất nước dần dần chuyển dịch theo hướng tăng tỉ trọng ngành công nghiệp và thương mại dịch vụ, giảm dần tỷ trọng ngành nông nghiệp trong GDP.

Bảng 3: Cơ cấu các ngành trong GDP

1991

1995

2000

2005

2006

Tổng số

100

100

100

100

100

Trong đó

Nông, lâm, ngư nghiệp

40,5

27,5

24,53

20,89

20,20

Công nghiệp, xây dựng

23,8

30,1

36,73

41.03

41,60

Dịch vụ

35,7

42,4

38,84

38,08

38,20

Nguồn: Tổng cục Thống kê.

Ba là, thị trường từng bước phát triển.

Điều dễ thấy nhất trong hơn 20 năm đổi mới là sự phát triển mạnh mẽ của các loại thị trường.

Thị trường hàng tiêu dùng dịch vụ có bước phát triển khá mạnh. Lương thực, thực phẩm được lưu thông tự do đã có tác dụng tích cực thúc đẩy sản xuất phát triển, từ chỗ thiếu lương thực tới chỗ an toàn lương thực và có xuất khẩu. Thị trường hàng tiêu dùng dịch vụ ngày càng phong phú đa dạng.

Thị trường yếu tố sản xuất từng bước được hình thành. Thị trường vốn, thị trường sức lao động dần được thừa nhận.

Thị trường nước ngoài đã được mở rộng. Cho đến nay Việt Nam đã có quan hệ buôn bán với trên 100 nước trên thế giới

Điều quan trọng là các quan hệ thị trường được xác lập hoạt động theo quy luật thị trường. Nguyên tắc tự do về căn bản được áp dụng cho giá cả hàng hoá trên thị trường hàng tiêu dùng dịch vụ, như: lương thực, thực phẩm, quần áo, dày dép, ...

Chính nhờ nguyên tắc đó mà nền kinh tế đã tháo gỡ được những gò bó hà khắc do cơ chế kế hoạch hoá tập trung trước đây, làm cho sản xuất và thị trường "bung ra".

2.1.3. Vai trò nhà nước trong việc đổi mới công cụ chính sách kinh tế vĩ mô để điều tiết và thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế thị trường

Trước đây, trong điều kiện nền kinh tế vận hành theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung, kế hoạch hoá là công cụ trung tâm để quản lý nền kinh tế. Cơ

chế kế hoạch hoá tập trung đã đưa nền kinh tế tới chỗ sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào, sản xuất cho ai đề phải theo mệnh lệnh kế hoạch của Nhà nước. Từ đầu vào, tới quá trình sản xuất và đến đầu ra đều được tiến hành theo một mệnh lệnh thống nhất phát ra từ một trung tâm. Kiểu kế hoạch hoá như vậy hoàn toàn đối ngược với cơ chế thị trường, không được thị trường chấp nhận.

Trong những năm đổi mới, chúng ta đã chuyển phương pháp quản lý kinh tế của Nhà nước, từ kế hoạch hoá tập trung sang sử dụng các công cụ, chính sách kinh tế vĩ mô và xây dựng môi trường luật pháp để quản lý, điều hành nền kinh tế nước ta.

Về kế hoạch hoá: sự đổi mới kế hoạch hoá bắt đầu từ việc thu hẹp chỉ tiêu pháp lệnh và tăng cường các chỉ tiêu hướng dẫn. Điều đó đã mở rộng quyền tự chủ, sáng tạo của các đơn vị sản xuất kinh doanh.

Tiếp đó kế hoạch hoá được đổi mới căn bản ở tầm vĩ mô, các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội được xây dựng mang tính định hướng dựa trên cơ sở các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, các chương trình mục tiêu và dự án phát triển trung và dài hạn.

Trong những năm đổi mới vừa qua, nhà nước ta đã từng bước đổi mới các chính sách tài chính, tiền tệ.

Từ những năm1990 đến nay, nhà nước ta đã tích cực xây dựng và đưa vào thực hiện hệ thống thuế thống nhất bao quát cho nền kinh tế nhiều thành phần. Đổi mới và sử dụng có hiệu quả hơn các công cụ chính sách tiền tệ, do đó đã kiểm soát và duy trì lạm phát ở mức thấp. Các công cụ chính sách tài chính, tiền tệ như đầu tư nhà nước, thuế, lãi suất, bảo hiểm, trợ cấp, khối lượng tiền tệ, dần dần được sử dụng với tư cách là công cụ kinh tế vĩ mô để nhà nước điều tiết sản xuất như định hướng đầu tư, khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển.

Một trong những minh chứng cho sự đổi mới này là việc đổi mới chính sách thuế đối với khu vực doanh nghiệp. Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, do kinh tế tư nhân không được pháp luật thừa nhận nên chính sách điều tiết của nhà nước đã hướng vào các nguồn thu từ khu vực kinh tế quốc doanh và khu vực kinh tế tập thể là chủ yếu, trong đó lớn nhất là chính sách thu quốc doanh và chính sách thuế nông nghiệp. Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hệ thống điều tiết cũ đã tỏ ra không còn thích hợp, Nhà nước đã phải thay thế bằng một hệ thống luật thuế mới, trong đó năm 1990 và năm 1991 đã ban hành Luật thuế lợi tức, Luật thuế doanh thu, Luật thuế xuất khẩu, Luật thuế nhập khẩu, Luật thuế tiêu thụ đặc biệt. Những luật thuế này đã áp dụng bình đẳng đối với mọi thành phần kinh tế, không kể quốc doanh hay tập thể, tư nhân. Sự bình đẳng này được khu vực kinh tế tư nhân hoan nghênh, nhưng khu vực kinh tế nhà nước còn chưa kịp thích nghi bởi chế độ tài chính doanh nghiệp nhà nước vẫn chưa được đổi mới kịp thời.

Việc tăng, giảm thuế suất cũng là một trong những khâu quan trọng của tiến trình cải cách thuế của nhà nước, trong đó thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt đối với một số loại hàng hoá không khuyến khích tiêu dùng đã được tăng lên (như rượu, thuốc lá, hàng mã ...); ngược lại, thuế nông nghiệp (thuế sử dụng đất nông nghiệp) đã được xét giảm trên diện rộng để tạo điều kiện cải thiện điều kiện sản xuất và thu nhập của nông dân.

2.1.4. Vai trò nhà nước trong xây dựng chính sách điều tiết thu nhập, đảm bảo bình đẳng xã hội

Sự phát triển của nền kinh tế thị trường ngày càng mạnh, thì những vấn đề mặt trái của nó ngày càng nảy sinh, tình trạng phân hoá, bất bình đẳng xã hội ngày càng rõ nét ở nước ta. Nhận thức được điều đó, cùng với sự đổi mới

Xem tất cả 58 trang.

Ngày đăng: 15/04/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí