Sự Cần Thiết Phải Nâng Cao Năng Lực Cạnh Tranh Của Ngân Hàng Thương Mại


Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là thể hiện thực lực và lợi thế của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh trong việc thõa mãn tốt nhất các đòi hỏi của khách hàng để thu lợi nhuận ngày càng cao và nó được tạo ra từ thực lực của doanh nghiệp như công nghệ, tài chính, nhân lực, tổ chức quản trị doanh nghiệp... Có quan điểm cho rằng, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp gắn liền với ưu thế của sản phẩm mà doanh nghiệp đưa ra thị trường. Có quan điểm gắn năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp với thị phần mà nó nắm giữ, cũng có quan điểm đồng nhất năng lực kinh doanh của doanh nghiệp với hiệu quả sản xuất kinh doanh,…Tuy nhiên, nếu chỉ dựa vào thực lực và lợi thế của mình thì chưa đủ, bởi trong điều kiện toàn cầu hóa kinh tế, lợi thế bên ngoài đôi khi là yếu tố quyết định.

Năng lực cạnh tranh thể hiện ở việc làm tốt hơn với các doanh nghiệp so sánh (các đối thủ) về doanh thu, thị phần, khả năng sinh lời và đạt được thông qua các hành vi chiến lược, được định nghĩa như là một tập hợp các hành động tiến hành để tác động tới môi trường nhờ đó làm tăng lợi nhuận công ty, cũng như bằng những công cụ marketing khác. Nó cũng đạt được thông qua việc nâng cao chất lượng sản phẩm mà sự sáng tạo sản phẩm là những khía cạnh rất quan trọng của quá trình cạnh tranh.

Như vậy,“năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là việc khai thác, sử dụng lợi thế bên trong, bên ngoài nhằm tạo ra những sản phẩm - dịch vụ hấp dẫn người tiêu dùng để tồn tại, phát triển, thu được lợi nhuận ngày càng cao và cải tiến vị trí so với các đối thủ cạnh tranh trên thị trường”.

Trong bài viết “Đánh giá năng lực cạnh tranh của các NHTM Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế” tác giả Đỗ Thị Minh Đức đã đưa ra khái niệm năng lực cạnh tranh của các NHTM như sau: “Năng lực cạnh tranh của một NHTM là khả năng tạo ra và sử dụng hiệu quả các lợi thế so sánh để giành thắng lợi trong quá trình cạnh tranh với NHTM khác”. Do vậy, năng lực cạnh tranh của NHTM là một khái niệm động, bao gồm cả việc ngân hàng phải liên tục duy trì và phát triển năng lực cạnh tranh và luôn được đặt trong sự phát triển liên tục. Các lợi thế so sánh (hiện có và được tạo ra) chỉ là những yếu tố tiềm năng, điều quan trọng là các lợi thế này phải được sử dụng một cách hợp lý, có hiệu quả, đồng thời phải luôn đầu tư


nhằm duy trì và tăng cường thêm năng lực một cách bền vững. Ngoài ra, cạnh tranh là một hoạt động có chủ đích do vậy năng lực cạnh tranh thường gắn liền với kết quả hoạt động kinh doanh, tức là mức độ đạt được các mục tiêu cạnh tranh đã đặt ra.

Theo PGS.TS Nguyễn Thị Quy thì “Năng lực cạnh tranh của một ngân hàng là khả năng ngân hàng đó tạo ra, duy trì và phát triển những lợi thế nhằm duy trì và mở rộng thị phần, đạt được mức lợi nhuận cao hơn mức trung bình của ngành và liên tục tăng đồng thời đảm bảo sự hoạt động an toàn và lành mạnh, có khả năng chống đỡ và vượt qua những biến động bất lợi của môi trường kinh doanh”[5].

Với khái niệm này thì PGS.TS Nguyễn Thị Quy đã đề cập đến năng lực nội tại của một NHTM và mối quan hệ của nó với sự phát triển của ngàn ngân hàng trên cơ sở tận dụng được lợi thế của mình nhằm đạt được lợi nhuận cao hơn. Mặt khác, khái niệm trên cũng thể hiện sự linh hoạt trong chiến lược cạnh tranh của NHTM khi thích nghi và tận dụng sự thay đổi của môi trường kinh doanh.

Từ những quan điểm trên, theo tác giả “Năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại là khả năng duy trì và mở rộng thị phần,thu được lợi nhuận ngày càng cao trong môi trường cạnh tranh, đồng thời đảm bảo hoạt động an toàn lành mạnh, có khả năng chống đỡ với những biến động bất lợi của môi trường kinh doanh”. Nó bao gồm các yếu tố nội tại và ngoại sinh của ngân hàng tác động đến chiến lược cạnh tranh của ngân hàng đó. Từ đó, có thể tận dụng các cơ hội trên cơ sở phát huy lợi thế của mình, đồng thời cũng khắc phục, hạn chế những tác động tiêu cực của môi trường kinh doanh đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 173 trang tài liệu này.

1.1.2. Đặc điểm cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng

Do xuất phát từ những đặc thù của hoạt động kinh doanh ngân hàng và những ảnh hưởng của hoạt động ngân hàng đối với nền kinh tế, cạnh tranh của NHTM có những đặc trưng riêng.

Mô hình phân tích năng lực cạnh tranh của các ngân hàng thương mại Việt Nam - 4

Một là, các NHTM vừa cạnh tranh gay gắt vừa hợp tác với nhau.

Cũng như bất kỳ một doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nào, trong hoạt động của mình, các ngân hàng luôn phải cạnh tranh gay gắt với nhau để mở rộng thị trường và thu hút khách hàng nhằm mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận. Tính chất gay gắt


trong cạnh tranh ngân hàng xuất phát từ đặc thù của sản phẩm, dịch vụ ngân hàng là có tính tương đồng cao và rất dễ bị bắt chước. Mặt khác, trong cạnh tranh, các ngân hàng không chỉ sử dụng các công cụ mang tính truyền thống như phí, lãi suất, các dịch vụ ngân hàng,... mà còn sử dụng công nghệ hiện đại để đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ, đưa ra các kênh phân phối mới và nâng cao chất lượng các sản phẩm, dịch vụ, tinh thần, thái độ phục vụ khách hàng...Bên cạnh đó, do điều kiện về vốn, mạng lưới, công nghệ có hạn trong khi nhu cầu, đòi hỏi về sản phẩm, dịch vụ ngân hàng ngày càng cao nên các ngân hàng cũng phải liên kết với nhau để cùng cung cấp một hay một số sản phẩm dịch vụ nhất định cho khách hàng. Vì vậy, để tránh đổ vỡ toàn hệ thống cũng như tiết kiệm chi phí, đảm bảo an toàn trong kinh doanh, các NHTM một mặt cạnh tranh với nhau, một mặt lại hợp tác chặt chẽ với nhau trong cung cấp các sản phẩm dịch vụ cho khách hàng.

Hai là, cạnh tranh ngân hàng luôn phải hướng tới một thị trường lành mạnh, tránh khả năng xảy ra rủi ro hệ thống: Các NHTM phải cạnh tranh lành mạnh thông qua cung cấp các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng có chất lượng, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của khách hàng. Ngân hàng là doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ, đi vay để cho vay lại nếu các ngân hàng cạnh tranh không lành mạnh, hoặc cạnh tranh thông qua việc tăng lãi suất huy động tiền gửi, giảm lãi suất cho vay, phí dịch vụ, nới lỏng các điều kiện tín dụng... sẽ làm cho nguồn thu của các ngân hàng giảm sút, nguy cơ tiềm ẩn rủi ro tín dụng tăng cao dẫn đến rủi ro hệ thống. Vì vậy, mặc dù cạnh tranh với nhau nhưng trong hoạt động các NHTM vẫn phải liên kết với nhau để giữ mặt bằng giá phù hợp, đảm bảo lợi ích chung và tránh rủi ro hệ thống vì nếu một ngân hàng có nguy cơ thua lỗ, phá sản, khách hàng sẽ đồng loạt đến rút tiền, gây tâm lý hoang mang cho khách hàng gửi tiền tại các ngân hàng thương mại khác. Điều này dễ dẫn đến khả năng đổ vỡ theo hiệu ứng Domino mang tính hệ thống và sẽ tác động đến toàn bộ nền kinh tế quốc dân.

Ba là, hoạt động kinh doanh ngân hàng cũng như sự cạnh tranh giữa các ngân hàng luôn chịu sự tác động của môi trường bên ngoài bởi các sản phẩm dịch vụ ngân hàng đưa ra nhằm đáp ứng nhu cầu của những đối tượng khách hàng cụ


thể. Trong khi đó, khách hàng của ngân hàng lại rất đa dạng như khách hàng là các tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần của nền kinh tế. Với từng môi trường kinh doanh, trong từng điều kiện kinh tế và khu vực địa lý nhất định, ngân hàng cần có những chính sách phù hợp để đưa ra các sản phẩm, dịch vụ đáp ứng nhu cầu của khách hàng, thu hút khách hàng, giành ưu thế trong cạnh tranh.

Bốn là, cạnh tranh ngân hàng nằm trong vùng ảnh hưởng thường xuyên của thị trường tài chính quốc tế. Cùng với quá trình mở cửa, hội nhập nền kinh tế, sự giao thoa về kinh tế giữa các quốc gia ngày càng mạnh mẽ. Các ngân hàng tăng cường hợp tác với các ngân hàng nước ngoài cũng như mở rộng hoạt động kinh doanh của mình ra thị trường các nước trên thế giới. Lộ trình hội nhập đòi hỏi các NHTM trong nước phải tuân thủ các quy định quốc tế về hoạt động ngân hàng và sự tác động của phía đối tác. Mỗi sự thay đổi của tỷ giá, lãi suất của các loại ngoại tệ liên quan, điều kiện kinh tế trên thế giới, chính sách tiền tệ của các nước… đều ảnh hưởng và tác động đến hoạt động kinh doanh của các NHTM trong nước. Do vậy, trong cạnh tranh, các ngân hàng cũng phải có những chính sách thích hợp để đối phó với những biến động của thị trường tài chính quốc tế.

1.1.3. Nội dung cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng

1.1.3.1.Cạnh tranh bằng giá.

Khi sử dụng sản phẩm, người tiêu dùng luôn quan tâm đến giá của sản phẩm. Giá của sản phẩm ngân hàng là lãi suất huy động, lãi suất cho vay và phí sử dụng dịch vụ. Ngân hàng thương mại nào trả lãi huy động cao, thu lãi cho vay và phí dịch vụ thấp sẽ có khả năng thu hút khách hàng. Trong quá trình thực hiện mục tiêu cạnh tranh về giá, ngân hàng thương mại lại gặp một vấn đề cần phải cân nhắc đó là làm sao để duy trì được mức lợi nhuận cao bởi lẽ để đạt được giá có sức cạnh tranh cao thì thu nhập của ngân hàng sẽ giảm xuống. Vì vậy, để thực hiện được cả mục tiêu về giá và duy trì lợi nhuận, các ngân hàng thương mại phải cố gắng tiết kiệm nguồn lực, tạo dựng lòng tin và thực hiện các hoạt động marketing nhằm thu hút khách hàng để khai thác lợi ích kinh tế nhờ qui mô.


1.1.3.2. Cạnh tranh bằng chất lượng dịch vụ. Trong nền kinh tế hiện đại ngày nay, khi mà khoa học công nghệ phát triển như vũ bão, sản phẩm ra đời ngày càng phong phú đa dạng, tạo thuận lợi cho sự lựa chọn của người tiêu dùng và đặt nhà kinh doanh trước các áp lực cạnh tranh ngày càng gay gắt.Vì thế, việc nâng cao chất lượng sản phẩm hàm ý phải thỏa mãn cao nhất những yêu cầu đòi hỏi từ phía khách hàng.

Theo quan niệm của khách hàng, một sản phẩm ngân hàng có chất lượng phải đáp ứng được tốt nhất, nhiều nhất nhu cầu mong muốn của khách hàng, đem lại cho khách hàng một tập hợp tiện ích và lợi ích. Do vậy, khi đánh giá một sản phẩm ngân hàng có chất lượng, khách hàng thường dựa vào các tiêu chí sau:

- Mức độ tham gia của khách hàng vào quá trình cung ứng sản phẩm dịch vụ ít và đơn giản;

- Tốc độ xử lý nhanh;

- Mức độ chính xác cao;

- Hiệu quả đem lại cho khách hàng lớn;

- Thái độ phục vụ tốt

- Trình độ cộng nghệ hiện đại.

Thực tế, trên thị trường ngày càng có nhiều ngân hàng cung ứng sản phẩm dịch vụ cho khách hàng. Vì vậy khách hàng có sự so sánh, đánh giá và quyết định lựa chọn ngân hàng có sản phẩm dịch vụ chất lượng cao. Thậm chí khách hàng thay đổi quan hệ từ ngân hàng có sản phẩm chất lượng kém sang ngân hàng có sản phẩm chất lượng tốt.

Ngân hàng là một ngành dịch vụ, cung ứng cho nền kinh tế những dịch vụ tài chính, vì vậy để có được chất lượng dịch vụ tốt đòi hỏi ngân hàng phải sở hữu được nguồn nhân lực chất lượng cao và được khai thác sử dụng hiệu quả. Trong điều kiện cạnh tranh, năng lực của bộ máy lãnh đạo càng được coi trọng hơn do cơ hội của các NHTM là như nhau, sự phát triển của ngân hàng sẽ phụ thuộc nhiều hơn vào tầm nhìn và khả năng nắm bắt cơ hội, đề ra chiến lược phù hợp của ban lãnh đạo.Còn đội ngũ cán bộ nhân viên ngân hàng là những người trực tiếp thực hiện các nghiệp vụ ngân hàng, cung cấp các dịch vụ ngân hàng cho khách hàng, thực hiện


chiến lược, định hướng của ban lãnh đạo ngân hàng. Vì vậy, năng lực của đội ngũ cán bộ, nhân viên còn được phản ánh ở khả năng ứng phó xử lý các tình huống nhanh, đạo đức và thái độ phục vụ, tác phong chuyên nghiệp, mức độ thành thạo nghiệp vụ...

Trong xu thế hội nhập toàn cầu, con người sẽ là yếu tố tạo ra ưu thế cạnh tranh để tồn tại và phát triển. Người quản lý giỏi như chiếc đầu tàu dẫn dắt con tàu đi đến đích của mình vừa an toàn, vừa nhanh chóng. Nhà quản lý ngân hàng giỏi là người xây dựng được chiến lược kinh doanh đúng hướng, lãnh đạo thực hiện chiến lược kinh doanh đó một cách tốt nhất dựa trên cơ sở phát huy những nội lực cũng như tận dụng được những ngoại lực từ bên ngoài. Trình độ quản lý của nhà quản lý được đánh giá thông qua một số tiêu chí chủ yếu:

o Trình độ chuyên môn.

o Tính sáng tạo trong việc tìm ra giải pháp và các lựa chọn mới.

o Kỹ năng giao tiếp.

o Khả năng cộng tác và tạo niềm tin đối với khách hàng.

o Khả năng nhìn ra những tiềm năng từ những gì hiển nhiên.

o Khả năng tập hợp mọi người trong thực hiện công việc.

o Là tấm gương về khả năng lãnh đạo cho mọi người noi theo.

o Linh hoạt trong những thay đổi cần thiết hoặc biết thích nghi với các yêu cầu thay đổi.

Ngoài yếu tố con người ra, ngân hàng thương mại không thể cung cấp được ngày càng nhiều loại sản phẩm với chất lượng tốt, giá cả phù hợp khi không có những đầu tư thích hợp cho việc hiện đại hoá công nghệ. Trình độ, công nghệ quyết định đến chất lượng và tính đa dạng của dịch vụ do ngân hàng thương mại cung cấp ở hiện tại cũng như trong tương lai. Công nghệ ngân hàng bao gồm những công nghệ mang tính tác nghiệp như hệ thống thanh toán điện tử, hệ thống ngân hàng bán lẻ, máy rút tiền tự động và các hệ thống thông tin quản lý MIS, hệ thống cảnh báo rủi ro... Các hệ thống này có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng dịch vụ cung cấp cho khách hàng cũng như khả năng quản lý, quản trị hoạt động của nhà quản lý ngân hàng. Theo tính toán và kinh nghiệm của các ngân hàng nước ngoài, công nghệ thông tin có thể làm giảm 76% chi phí hoạt động ngân hàng. [15]


1.1.4. Sự cần thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại

Thứ nhất, do tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam khi chính thức được công nhận là thành viên của tổ chức thương mại Quốc tế WTO ngày 7/11/2006 và những diễn biến phức tạp của kinh tế thế giới trong bối cảnh hậu khủng hoảng tài chính năm 2008, doanh nghiệp Việt Nam đứng trước nhiều cơ hội cũng như thách thức quan trọng. Một trong những thách thức đó là mức độ cạnh tranh trong nước ngày càng gay gắt, khi lộ trình tham gia WTO đã đến thời điểm dỡ bỏ các giới hạn về hoạt động của các NHNNg, thay vào đó là sự tham gia và cạnh tranh bình đẳng của các ngân hàng nước ngoài có tiềm lực tài chính tốt, có trình độ quản lý và đặc biệt là kinh nghiệm hoạt động trong môi trường cạnh tranh. Đây là lý do buộc các ngân hàng thương mại Việt Nam phải nâng cao năng lực cạnh tranh của mình để có thể tồn tại và phát triển. Để tạo ra lợi thế cạnh tranh ngân hàng cần phải đặt vấn đề nhận dạng, nuôi dưỡng và phát triển các nguồn lực để có thể tạo nên lợi thế cạnh tranh trên thị trường nội địa và từng bước trên thị trường quốc tế [17].

Thứ hai, với quá trình mở cửa nền kinh tế, tự do hóa và hội nhập thị trường tài chính tiền tệ, sự cạnh tranh đối với ngành ngân hàng tất yếu sẽ ngày càng trở nên gây gắt và quyết liệt. Hiện nay, cạnh tranh giữa các NHTM không chỉ dừng ở các loại hình dịch vụ truyền thống (huy động và cho vay) mà còn cạnh tranh ở thị trường sản phẩm dịch vụ mới do nhu cầu sử dụng các sản phẩm dịch vụ ngân hàng hiện đại của khách hàng ngày càng tăng cao.

Thứ ba, do số lượng nhà cung cấp cùng cung ứng một loại sản phẩm dịch vụ trên thị trường ngày càng tăng trong điều kiện hội nhập quốc tế và do nhu cầu của khách hàng luôn thay đổi, vì vậy việc nâng cao năng lực cạnh tranh để tạo một ưu thế nổi trội so với các đối thủ là một nhiệm vụ sống còn của các nhà cung cấp để đánh bại được các đối thủ, thu hút và giữ chân khách hàng nhằm bán được hàng và kiếm được lợi nhuận.

Thứ tư, sự phát triển của thị trường tài chính và các ngành phụ trợ liên quan với ngành ngân hàng. Thị trường tài chính càng phát triển thì khách hàng càng có nhiều sự lựa chọn. Các yêu cầu của khách hàng đối với dịch vụ ngân hàng sẽ ngày


càng cao hơn cả về chất lượng, giá cả, các tiện ích lẫn phong cách phục vụ. Đây chính là áp lực buộc các NHTM phải đổi mới và hoàn thiện mình nhằm đáp ứng nhu cầu của khách hàng và nâng cao khả năng cạnh tranh của mình. Mặt khác, đặc điểm hoạt động của các loại hình định chế tài chính có mối liên hệ rất chặt chẽ và có sự bổ trợ lẫn nhau, như ngành bảo hiểm và thị trường chứng khoán với ngành ngân hàng. Sự phát triển của thị trường bảo hiểm và thị trường chứng khoán, một mặt chia sẻ thị phần với ngân hàng, nhưng mặt khác cũng hỗ trợ cho sự tăng trưởng của ngành ngân hàng thông qua việc cắt giảm chi phí và tạo điều kiện cho các NHTM đa dạng hóa các dịch vụ, tăng khả năng cạnh tranh nhờ tận dụng lợi thế theo phạm vi. Sự cạnh tranh trong lĩnh vực dịch vụ tài chính đang ngày càng trở lên quyết liệt khi ngân hàng và các đối thủ cạnh tranh mở rộng danh mục dịch vụ. Lúc này, ngân hàng không chỉ cạnh tranh với các đối thủ trực tiếp là các NHTM trong nước và nước ngoài mà còn cạnh tranh với các định chế tài chính khác như: hiệp hội tín dụng, các công ty chứng khoán, công ty tài chính, công ty bảo hiểm…

Ngoài ra, sự phát triển của ngành ngân hàng còn phụ thuộc rất nhiều vào sự phát triển của khoa học kỹ thuật cũng như sự phát triển của các ngành, lĩnh vực khác như tin học viễn thông, giáo dục đào tạo, kiểm toán. Đây là những ngành phụ trợ mà sự phát triển của nó sẽ giúp ngân hàng nhanh chóng đa dạng hóa các dịch vụ, tạo lập thương hiệu và uy tín, thu hút nguồn nhân lực cũng như có những kế hoạch đầu tư hiệu quả trong một thị trường tài chính vững mạnh.

Thứ năm, trong lĩnh vực ngân hàng thì việc áp dụng công nghệ là một trong những yếu tố tạo nên sức mạnh cạnh tranh của các NHTM. Để nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ nhằm đáp ứng mọi yêu cầu của khách hàng thì nhu cầu công nghệ là vô cùng quan trọng. Công nghệ sẽ góp phần tạo nên những chuyển biến mang tính độc đáo và tiện ích hơn, nó giúp các NHTM có thể cung ứng sản phẩm dịch vụ mà không bị giới hạn về không gian và thời gian. Ngày nay, các NHTM đang triển khai phát triển những sản phẩm ứng dụng công nghệ cao, và sử dụng các sản phẩm dịch mang tính chất công nghệ làm thước đo cho sự cạnh tranh, đặc biệt là trong lĩnh vực thanh toán và các sản phẩm dịch vụ điện tử khác.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 15/05/2023