Định Hướng Nâng Cao Năng Lực Cạnh Tranh Trong Xu Thế Hội Nhập Của Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Quốc Tế Việt Nam


so với các ngân hàng trong khu vực và thế giới. Bản thân việc hạn chế về vốn đã ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh, quan trọng hơn, hạn chế về vốn cản trở ngân hàng trong việc tiến hành các hoạt động đầu tư và kinh doanh.

Đầu tư đổi mới công nghệ còn chậm và nhiều bất cập. Công nghệ là yếu tố nền tảng để tăng năng lực cạnh tranh của ngân hàng. Tuy nhiên, đầu tư cho công nghệ nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh còn nhiều bất cập:

- Đầu tư cho công nghệ còn chưa đáp ứng tiêu chuẩn của khu vực. Thông thường, các ngân hàng trong khu vực sử dụng 10% quỹ chi phí hoạt động để đầu tư cho công nghệ thông tin hàng năm, khoảng 5% lợi nhuận để đầu tư cho hạ tầng công nghệ ngân hàng. Trong khi tỷ lệ này ở VIB chỉ khoảng 2 %.

- Chưa đầu tư đồng bộ giữa công nghệ phần mềm, phần cứng và nguồn chất xám nên khai thác sử dụng tính năng công nghệ còn hạn chế. Đã chú trọng vào đầu tư công nghệ nhằm đa dạng dịch vụ song chưa đủ để nâng cao chất lượng dịch vụ và ứng dụng tiện ích công nghệ chưa sâu.

- Đầu tư công nghệ còn manh mún, chưa đầu tư một cách thống nhất, bài bản dựa trên một tầm nhìn dài hạn và bao quát. Cho đến nay, VIB vẫn ứng dụng chung giữa những công nghệ cũ, lạc hậu với những công nghệ mới, cán bộ ngân hàng vẫn phải thao tác xử lý nghiệp vụ trên nhiều chương trình khác nhau, có những chương trình không xử lý tự động các dữ liệu gây khó khăn, giảm hiệu quả công việc.

- Đầu tư công nghệ phụ thuộc nhiều vào các đối tác cung cấp công nghệ.

Chất lượng nguồn nhân lực còn có khoảng cách xa so với yêu cầu cũng như mặt bằng chung của các ngân hàng thuộc 10 ngân hàng lớn nhất Việt Nam. Trình độ năng lực của cán bộ chưa đồng đều hoặc không được đào tạo lại sau khi tuyển dụng, phong cách chưa thật chuyên nghiệp, trình độ còn bộc lộ non kém. Trong đó số cán bộ biết và sử dụng thành thạo ngoại ngữ còn rất ít. Trong khi để phát triển các dịch vụ ngân hàng đặc biệt là các dịch vụ ngân hàng hiện đại thì rất cần đến ngoại ngữ như hoạt động thu đổi ngoại tệ, thanh toán séc du lịch, thẻ Master,...Điều này đã ảnh hưởng không tốt tới hiệu quả hoạt động cũng như hình ảnh, uy tín của VIB. Bên cạnh đó tình trạng nhiều cán bộ không được đào tạo đúng chuyên ngành, đây chính là khó khăn trong việc phát triển dịch vụ ngân hàng do thiếu cán bộ có chuyên môn, năng lực trong quản lý, điều hành và kinh doanh các dịch vụ mới và hiện đại.


- Để vận hành được những công nghệ mới cũng như triển khai các sản phẩm dịch vụ ngân hàng hiện đại, yêu cầu đặt ra cho đội ngũ nhân viên ngân hàng là phải thực sự chuyên nghiệp với các kỹ năng, hiểu biết về nghiệp vụ mới, về công nghệ, ngoại ngữ, giao tiếp,…Tuy nhiên, đầu tư cho nhân lực mới chỉ dừng ở việc tổ chức các buổi tập huấn khi có sản phẩm mới hoặc phát sinh các vấn đề cần giải quyết; chưa có kế hoạch đào tạo nâng cao một cách có hệ thống, bài bản. Các chính sách đãi ngộ dành cho cán bộ cũng chưa thoả đáng, dẫn đến hiện tượng chảy máu chất xám.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 190 trang tài liệu này.

b. Với nhóm sản phẩm dịch vụ

Chiến lược phát triển sản phẩm dịch vụ nói riêng và chiến lược cạnh tranh nói chung tổ chức triển khai thiếu chặt chẽ, kiên quyết và chưa hiệu quả. Chưa làm tốt công tác nghiên cứu thị trường, khách hàng và đặc trưng vùng miền, để có giải pháp phát triển các sản phẩm trọng tâm cốt lõi phù hợp với năng lực hiện có.

Nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại cổ phần quốc tế trên thị trường Việt Nam - 19

Chiến lược phát triển tổng thể dịch vụ chưa hoàn chỉnh, phát triển chậm, các sản phẩm dịch vụ mới dừng lại ở những sản phẩm đơn thuần, truyền thống và đi theo các sản phẩm tín dụng, chưa chú trọng đi vào chiều sâu, chất lượng, hiệu quả . Phát triển sản phẩm mới theo chuỗi, gói chưa có hoặc có chưa đồng bộ, thiếu độ kiểm soát để tối ưu hóa được việc sử dụng và tăng thêm thu nhập cho ngân hàng.

VIB thiếu kinh nghiệm triển khai các nghiệp vụ bán lẻ hiện đại và kinh nghiệm vận hành theo mô hình ngân hàng cổ phần,…

Công nghệ thông tin là yếu tố then chốt tuy nhiên các đề án đầu tư triển khai còn chậm nên chưa đáp ứng đầy đủ, hiệu quả cho việc phát triển các sản phẩm dịch vụ, ngân hàng ngay cả các sản phẩm dịch vụ có nhu cầu cao.

c. Nhóm thị phần, khách hàng và thương hiệu

Thị phần bị giảm như nói trên, cùng với đầu tư cho các hoạt động phát triển thương hiệu, xúc tiến bán hàng còn thiếu, trong khi các ngân hàng cổ phần khác rất năng động, nhạy bén và chuyên nghiệp trong việc tiến hành các biện pháp nhằm quảng bá hình ảnh thương hiệu, sản phẩm, thu hút khách hàng, tăng tính hấp dẫn cho sản phẩm qua các biện pháp marketing.

Chưa xây dựng được hệ thống khách hàng trọng tâm cốt lõi và phù hợp với năng lực hiện có để chú trọng và quan tâm nhiều hơn trong quá trình hợp tác. Ví dụ chọn phân khúc khách hàng doanh nghiệp vừa và nhỏ có hoạt động xuất nhập khẩu đảm bảo


chia sẻ được rủi ro, an toàn và bán được nhiều sản phẩm phi tín dụng hơn thay vì cứ phải hợp tác với các khách hàng có quy mô lớn như tập đoàn – tổng công ty có thể tăng trưởng nhanh nhưng rủi ro tiềm ẩn nhiều.

Các chương trình khuyếch trương, quảng bá thương hiệu, sản phẩm chưa được đầu tư một cách chuyên nghiệp, quy mô lớn và thường xuyên. Hình thức quảng cáo còn đơn điệu, manh mún. Phương thức bán hàng, phân phối sản phẩm chưa được đầu tư một lượng vốn phù hợp để có thể triển khai một cách đồng bộ, chuyên nghiệp.

Để mở rộng hệ thống khách hàng và thị phần về lâu dài cần xây dựng nền tảng vững chắc cho sự phát triển của dịch vụ ngân hàng bán lẻ hiện đại và tiện ích, khách hàng cá nhân và khách hàng doanh nghiệp vừa và nhỏ [20],[22],[58].

d. Nhóm lợi nhuận

Hoạt động cho vay đang đem lại chủ yếu lợi nhuận cho ngân hàng nhưng quy mộ dư nợ giảm khiến cho lợi nhuận giảm, cùng với đó các hoạt động thu phí phi tín dụng chưa phát triển tốt. Chênh lệch lãi suất huy động và cho vay cũng chưa nhiều do công tác huy động chưa tốt, lãi suất đầu vào còn cao, thiếu sức cạnh tranh. Chi phí quản lý và vận hành chưa được tối ưu nên có xảy ra tình trạng lãng phí,…

Thiếu kinh nghiệm và chiến lược đầu tư : Đội ngũ lãnh đạo ngân hàng mặc dù là những người sớm nhìn nhận ra xu hướng phát triển của thị trường tài chính và rất sáng suốt, quyết liệt khi tập trung đầu tư nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh cho VIB nhưng hầu hết chưa có kinh nghiệm quản trị một ngân hàng cổ phần hiện đại theo chuẩn mực quốc tế. Do đó, đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của VIB chưa thực sự mang tầm chiến lược và mới đang trong giai đoạn triển khai bắt đầu từ năm 2009.

Thiếu kinh nghiệm và sự tư vấn cho chiến lược bao quát, dài hạn khiến cho hoạt động đầu tư manh mún, chưa đồng bộ, không mang lại hiệu quả mong muốn. Đặc biệt, công nghệ nếu không mang tầm chiến lược sẽ nhanh chóng trở nên lạc hậu, gây lãng phí đầu tư. Đó cũng là nguyên nhân gây ra sự mất cân đối trong cơ cấu đầu tư.

Quản lý hoạt động đầu tư còn nhiều bất cập. Việc xây dựng kế hoạch đầu tư hàng năm còn thiếu các căn cứ khoa học, thực tiễn, chưa bám sát tình hình biến động thực tế của kinh tế, xã hội, nhu cầu phát triển của từng chi nhánh, địa bàn hoạt động, năng lực của các đối thủ cạnh tranh,…vì thế kế hoạch đầu tư không khả thi.


Công tác kiểm tra, giám sát, báo cáo chưa đánh giá kịp thời hiệu quả đầu tư, chưa gắn hiệu quả đầu tư với năng lực cạnh tranh của ngân hàng. Tiêu chuẩn đầu tư chưa tiếp cận thông lệ thế giới dẫn đến những đánh giá sai lệch, hạn chế trong việc xây dựng kế hoạch.

Đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh chưa đúng trọng tâm, trọng điểm và mục tiêu chiến lược của ngân hàng. Với năng lực cạnh tranh và môi trường cạnh tranh như thời gian vừa qua, VIB phải đầu tư mạnh mẽ cho công nghệ để đa dạng hóa sản phẩm và đầu tư chuyên sâu cho phát triển thương hiệu và xúc tiến bán hàng. Tuy nhiên, việc đầu tư thời gian qua còn dàn trải và bất hợp lý, chưa tập trung vào trọng tâm. Điều này khiến cho năng lực cạnh tranh sản phẩm, năng lực công nghệ đang dần mất đi thế mạnh.

Nguyên nhân khách quan khác

Thiếu sự hỗ trợ của các cơ quan quản lý nhà nước. Trước hết đó là vai trò của cơ quan quản lý nhà nước, trực tiếp là ngân hàng nhà nước trong việc đảm bảo một môi trường cạnh tranh lành mạnh, minh bạch thông qua việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến cạnh tranh, tiếp theo đó là công tác thanh tra, kiểm tra và cuối cùng là xử phạt. Hơn thế nữa, đó là các cơ chế, chính sách về điều hành, đặc biệt là cho vay tái cấp vốn, nghiệp vụ thị trường mở. Sự hỗ trợ của các cơ quan quản lý nhà nước chưa đầy đủ và chưa đáp ứng được mong đợi của các ngân hàng thương mại nói chung, VIB nói riêng. Hỗ trợ trong việc định hướng, trong việc tạo điều kiện cho ngân hàng tiếp cận các cơ hội đầu tư, các đối tác cung cấp công nghệ cũng như những hỗ trợ về mặt tài chính trong hoạt động đầu tư công nghệ, hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực,…còn chưa thiết thực và đồng bộ.

Cơ sở pháp lý chưa đầy đủ và chưa đồng bộ. Môi trường pháp lý được coi là nền tảng rất quan trọng cho hoạt động ngân hàng nói chung và đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh hoạt động ngân hàng nói riêng. Cơ sở pháp lý luôn được xem như biện pháp đảm bảo an toàn cho các hoạt động kinh doanh, hoạt động đầu tư của ngân hàng. Tuy nhiên có một số lĩnh vực cơ sở pháp lý chưa đầy đủ khiến cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ gặp phải những khó khăn, vướng mắc nhất định, ví dụ: chế tài xử lý tài sản đảm bảo để thu hồi nợ xấu phải qua nhiều thủ tục rất mất thời gian, kéo dài nhiều năm mà chưa chắc đã xử lý được.


Một số hoạt động phải tuân thủ những chính sách chung cũng như quy định cụ thể của Ngân hàng nhà nước. Nhà nước có một số chính sách bắt buộc các ngân hàng phải tuân thủ như khống chế tỷ lệ thu phí một số dịch vụ, dẫn đến việc ngân hàng khó cân đối giữa thu chi, không chủ động được về chính sách giá cho dịch vụ và không có động lực để cải tiến chất lượng dịch vụ, nâng cao năng lực cạnh tranh. Các quy định và chính sách cho vay tái cấp vốn, nghiệp vụ thị trường mở,…chưa tạo ra môi trường cạnh tranh tích cực cho các nhóm ngân hàng khác nhau.

Áp lực cạnh tranh do mở cửa thị trường tài chính theo cam kết gia nhập WTO và các cam kết quốc tế khác của Việt Nam là rất lớn. Mở cửa thị trường tài chính đã tạo ra áp lực cạnh tranh ngày càng lớn và đặt ra những đòi hỏi ngày càng cao cho hoạt động đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh. Nhiều ngân hàng, tổ chức tài chính cùng cung cấp một danh mục đa dạng các sản phẩm với nhiều phương thức cạnh tranh tinh

vi. Đặc biệt, các NHNNg có thế mạnh về công nghệ và sản phẩm với tính năng nổi trội đặt ra những áp lực cạnh tranh không nhỏ. Hoạt động đầu tư của VIB do đó phải đáp ứng nhiều yêu cầu và trước nhiều lựa chọn hơn trong khi các ngân hàng khác đều có những chiến lược đầu tư nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh cho mình.

Mặt bằng trình độ công nghệ ngân hàng trong nước còn thấp, sự chênh lệch giữa hạ tầng của ngân hàng với hạ tầng chung cũng khiến cho việc đầu tư phát triển công nghệ ngân hàng gặp khó khăn, phát sinh nhiều chi phí đầu tư đi kèm, tốn kém và không hiệu quả và hoạt động đầu tư nâng cao trình độ công nghệ của ngân hàng lệ thuộc vào đối tác cung cấp công nghệ, máy móc thiết bị nước ngoài.

Ngoài ra, có thể kể đến nguyên nhân dịch vụ ngân hàng còn rất mới mẻ đối với đại bộ phận người dân trong xã hội, thu nhập của người dân còn thấp, trình độ của người dân còn hạn chế, trong khi đó để sử dụng được các dịch vụ của ngân hàng cũng phải đòi hỏi người dân phải có trình độ nhất định. Vì thế việc phát triển dịch vụ ngân hàng còn gặp nhiều khó khăn.

Tính hợp tác giữa các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt nam với các tổ chức khác và với ngân hàng nước ngoài còn nhiều vướng mắc. Vẫn còn phổ biến tình trạng mạnh ngân hàng nào ngân hàng đó lo. Hiệp hội ngân hàng hay ngân hàng nhà nước chưa phát huy được vai trò xúc tác, tạo điều kiện trong lĩnh vực hợp tác và cạnh tranh ngân hàng.


Cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng đang diễn ra với xu hướng ngày càng gay gắt, không chỉ giữa các doanh nghiệp vừa và nhỏ với nhau mà với các tổ chức có hoạt động ngân hàng như công ty tài chính, bảo hiểm, chứng khoán, các quỹ đầu tư phát triển. Sự sâm nhập của các tổ chức này đã làm cho các ngân hàng thương mại liên tục bị suy giảm về mặt thị phần và ngân hàng VIB cũng không nằm ngoài hiện trạng đó.

Trên đây là những nguyên nhân cơ bản dẫn đến những hạn chế trong hoạt động đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của VIB. Có những nguyên nhân chưa thể khắc phục ngay vì còn phụ thuộc vào điều kiện khách quan, thể chế kinh tế nhưng cũng có những nguyên nhân do chính sách và cách quản lý của ngân hàng thì có thể nỗ lực để cải thiện và khắc phục trong quá trình chuyển đổi và cơ cấu lại ngân hàng.


Kết luận chương 3


Trải qua gần 18 năm thành lập, hoạt động và phát triển, VIB mang những đặc thù riêng trong hoạt động, là ngân hàng có truyền thống và có thế mạnh trong các lĩnh vực thanh toán xuất nhập khẩu, kinh doanh ngoại tệ, tín dụng,…Những năm gần đây, VIB chủ trương đẩy mạnh kinh doanh bán lẻ và bắt đầu đạt được những kết quả ấn tượng trong một số sản phẩm như sản phẩm thẻ, vay tiêu dùng. Tuy nhiên, trong điều kiện thị trường tài chính phát triển mạnh mẽ và thực hiện các cam kết quốc tế về mở cửa thị trường, VIB đã và đang đứng trước nguy cơ mất dần đi các thế mạnh, giảm sút thị phần trong nhiều lĩnh vực. VIB vẫn có ưu thế cạnh tranh trong việc có lượng khách hàng truyền thống đông đảo, ưu thế trong việc cạnh tranh bằng giá, bằng chất lượng đối với một số sản phẩm truyền thống, chủ lực và có một thương hiệu uy tín lâu năm. Tuy nhiên, cũng có một số hạn chế trong cạnh tranh như sản phẩm dịch vụ chưa đa dạng, phong phú, tính năng chưa hiện đại, dịch vụ bán lẻ còn mới, các biện pháp khuếch trương thương hiệu, chương trình xúc tiến bán hàng còn đơn điệu, kém hấp dẫn, chưa đạt hiệu quả cao. Trong bối cảnh đó, đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của VIB cần tập trung chú trọng nhiều hơn. Thực trạng hoạt động đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của VIB trong thời gian vừa qua đã được tác giả nghiên cứu đầy đủ, chi tiết, đã tiến hành phân tích, đánh giá kết quả, hiệu quả của hoạt động đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh.

Có thể thấy đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh tại VIB thời gian qua, với cơ chế tác động cả trực tiếp và gián tiếp, đã mang lại những kết quả tích cực cho năng lực cạnh tranh. Đó là sự cải thiện của năng lực tài chính, năng lực công nghệ với hệ thống công nghệ hiện đại hơn, đáp ứng tốt hơn nhu cầu quản lý và phát triển sản phẩm, năng lực sản phẩm với việc ra đời nhiều sản phẩm mới trên nền tảng công nghệ hiện đại, năng lực quản trị, đội ngũ cán bộ, hệ thống phân phối cũng có những biến chuyển tích cực. Mặc dù vậy, xét theo mục tiêu cạnh tranh, hiệu quả đầu tư chưa cao, thị phần nhiều sản phẩm giảm sút, hiệu quả chưa tương xứng với chi phí bỏ ra. Nghiên cứu đã chỉ ra những hạn chế đó là hiệu quả đầu tư thấp, không đúng trọng tâm, thiếu tính chuyên nghiệp, chưa đáp ứng được yêu cầu của ngân hàng hiện đại, đổi mới công nghệ còn chậm…do cả nguyên nhân chủ quan và khách quan…


Chương 4

GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN QUỐC TẾ

TRÊN THỊ TRƯỜNG VIỆT NAM


4.1. Định hướng nâng cao năng lực cạnh tranh trong xu thế hội nhập của Ngân hàng thương mại cổ phần quốc tế Việt nam

4.1.1. Hội nhập quốc tế và yêu cầu phải cạnh tranh đối với ngân hàng thương mại

Việt Nam đang thực hiện lộ trình mở cửa thị trường dịch vụ tài chính theo cam kết gia nhập WTO và đang đàm phán Hiệp định đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP - Trans Pacific Strategic Economic Partnership Agreements). Điều đó cho thấy áp lực cạnh tranh trong nước cũng như cạnh tranh hội nhập quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng đang rất lớn đối với VIB cũng như cộng đồng ngân hàng trong nước. Quá trình cam kết mở cửa trong lĩnh vực ngân hàng theo quy định của WTO bao gồm các nội dung:

Một là, trừ khi có quy định trong danh mục cam kết cụ thể, các thành viên không được ban hành thêm hay áp dụng những biện pháp được nêu dưới đây, dù ở quy mô vùng hay trên toàn lãnh thổ: Hạn chế số lượng nhà cung cấp dịch vụ ngân hàng dưới hình thức quota theo số lượng, độc quyền, toàn quyền cung cấp dịch vụ ngân hàng hoặc yêu cầu đáp ứng những nhu cầu kinh tế ; Hạn chế về tổng số các hoạt động tác nghiệp hay tổng số lượng dịch vụ ngân hàng đầu ra tính theo số lượng đơn vị dưới hình thức quota theo số lượng hay yêu cầu phải đáp ứng các nhu cầu kinh tế ; Hạn chế về tổng trị giá các giao dịch về dịch vụ ngân hàng và tài sản dù dưới hình thức quota theo số lượng hay yêu cầu phải đáp ứng các nhu cầu kinh tế và hạn chế tổng số người được tuyển dụng trong lĩnh vực cụ thể hay một nhà cung cấp dịch vụ được phép tuyển dụng và những người cần thiết liên quan trực tiếp tới việc cung cấp dịch vụ ngân hàng dưới hình thức quota theo số lượng hay phải đáp ứng nhu cầu kinh tế.

Hai là, mỗi thành viên sẽ dành cho dịch vụ ngân hàng hay nhà cung cấp dịch vụ ngân hàng của bất kỳ thành viên nào khác sự đãi ngộ không kém phần thuận lợi hơn sự

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 09/12/2022