Nhân Tố Ảnh Hưởng Tới Năng Lực Cạnh Tranh Của Ngân Hàng Thương Mại


sản và tính thanh khoản của nguồn vốn. Khả năng thanh khoản của ngân hàng được thể hiện thông qua các chỉ tiêu như:

Khả năng thanh khoản của các ngân hàng thương mại là việc ngân hàng có khả 1

Khả năng thanh khoản của các ngân hàng thương mại là việc ngân hàng có khả năng tính toán và duy trì một lượng tiền mặt và các tài sản có tính thanh khoản đủ để đáp ứng nhu cầu rút tiền của người gửi tiền cũng như những tài sản nợ đến hạn phải trả khác. Việc quản lý rủi ro thanh khoản đối với ngân hàng thương mại là rất quan trọng. Sự thiếu hụt thanh khoản của một ngân hàng có thể có dẫn đến ngân hàng chỉ đang từ chỗ phải đối phó với rủi ro thanh khoản đến chỗ phải đối mặt với rủi ro phá sản và có những tác động nghiêm trọng đến toàn hệ thống ngân hàng.

+ Tỷ lệ dự trữ sơ cấp trong tổng tài sản. Dự trữ sơ cấp của ngân hàng thương mại gồm tiền mặt, các khoản coi như tiền mặt và các khoản tiền gửi, đây là các tài sản có tính thanh khoản cao nhất, do đó tỷ lệ này càng cao khả năng thanh khoản của ngân hàng càng tốt. Tuy nhiên, xét trên góc độ hiệu quả kinh tế thì tỷ lệ này sẽ tỷ lệ nghịch với tính sinh lời và nhiệm vụ của nhà quản trị ngân hàng là cân đối giữa mục tiêu an toàn và hiệu quả.

+ Tỷ lệ cho vay/Tiền gửi của khách hàng: Hệ số này được duy trì ổn định, không vượt quá 1 là dấu hiệu cho thấy khả năng thanh khoản của ngân hàng luôn được duy trì. Tuy nhiên, duy trì cụ thể ở mức nào còn phụ thuộc vào khả năng quản lý, quản trị rủi ro và khả năng huy động của từng ngân hàng.

Để duy trì an toàn thanh khoản ngân hàng cần phải duy trì các tỷ lệ về thanh khoản ở mức phù hợp, tuy nhiên việc duy trì mức thanh khoản thế nào cần phải tính đến sự hợp lý giữa việc đáp ứng cầu thanh khoản và việc sử dụng nguồn vốn một cách tốt nhất vì tính thanh khoản liên quan trực tiếp đến tính sinh lời của NHTM. Điều này đòi hỏi mỗi ngân hàng phải có chiến lược quản trị, quản lý thanh khoản hợp lý trong từng thời kỳ kinh doanh.

Năng suất lao động của CBNV: Năng suất lao động của CBNV phán ảnh hiệu quả sử dụng lao động của mỗi NHTM và cũng là một yếu tố thể hiện năng lực


cạnh tranh của NHTM. Năng suất lao động được thể hiện qua các chỉ tiêu như:

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 173 trang tài liệu này.

+ Tổng tài sản bình quân/người: vì tài sản phản ảnh việc sử dụng nguồn vốn của NHTM, vì vậy chỉ tiêu tổng tài sản bình quân/người cho biết khả sử dụng vốn bình quân của mỗi cán bộ nhân viên ngân hàng

+ Dư nợ bình quân/người: chỉ tiêu này phản ánh bình quân mỗi cán bộ ngân hàng cho vay/đầu tư được bao nhiêu tiền. Vì dư nợ cho vay là một trong những tài sản mang lại thu nhập lớn nhất cho các ngân hàng thương mại.

Mô hình phân tích năng lực cạnh tranh của các ngân hàng thương mại Việt Nam - 6

+ Lợi nhuận bình quân/người: lợi nhuận chính là thước đo cuối cùng của một quá trình kinh doanh của NHTM sau khi đã trừ đi tất cả các loại chi phí, thuế…, vì vậy đo lường lợi nhuận bình quân trên mỗi cán bộ nhân viên ngân hàng cho biết hiệu quả sử dụng nguồn lực của mỗi NHTM.

1.1.6. Nhân tố ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại

Hoạt động của các ngân hàng thương mại chịu tác động của nhiều nhân tố, chính những nhân tố này đã ảnh hường một cách trực tiếp hoặc gián tiếp tới năng lực cạnh tranh của ngân hàng. Có thể chia các nhân tố ảnh hưởng này thành hai nhóm lớn: Các nhân tố thuộc bản thân các NHTM và nhóm các nhân tố từ môi trường bên ngoài.

Môi trường kinh tế

Môi trường chính trị

Ban điều

hành

Trình

độ công nghệ

Môi trường công nghệ

NHTM

Môi trường toàn cầu

Chất lượng nguồn nhân lực

Cơ sở

vật chất

Môi trường văn hóa

Môi trường tự nhiên

Sơ đồ 1.1: Môi trường cạnh tranh của NHTM


Yếu tố nội bộ ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của NHTM

Ban điều hành: Ban điều hành được hiểu ở đây là bao gồm từ Hội đồng quản trị/sáng lập đến Ban tổng giám đốc/CEO. Đây là những người có vài trò điều hành chiến lược, có tầm nhìn và định vị các mục tiêu lâu dài. Nhiệm vụ của nhà chiến lược phải phân tích và phán đoán được năng lực của chính ngân hàng mình và các thế lực cạnh tranh trong môi trường ngành để xác định các cơ hội và những thách thức đối với ngân hàng mình. Vì vậy, nếu ban điều hành không nhận thức được áp lực cạnh tranh trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay sẽ hết sức nguy hiểm đến sự tồn vong của NHTM. Tuy nhiên, chỉ nhận thức thôi thì chưa đủ, yêu cầu đặt ra là ban điều hành phải huy động nguồn lực để tổ chức thực hiện các kế hoạch nhằm biến các nhận thức thành các hành động cụ thể. Trong điều kiện cạnh tranh, năng lực của bộ máy lãnh đạo càng được coi trọng hơn do cơ hội của các NHTM là như nhau, sự phát triển của ngân hàng sẽ phụ thuộc nhiều hơn vào tầm nhìn và khả năng nắm bắt cơ hội, đề ra chiến lược phù hợp của ban lãnh đạo. Ngoài chỉ tiêu về trình độ, năng lực của bộ máy lãnh đạo còn thể hiện qua các yếu tố: mức độ chi phối và khả năng giám sát của hội đồng quản trị; chất lượng và hiệu lực thực hiện của các chiến lược kinh doanh; khả năng ứng phó với những thay đổi của thị trường; sự tăng trưởng trong kết quả hoạt động kinh doanh...

Chất lượng nguồn nhân lực: Ngân hàng là doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực dịch vụ, vì vậy có thể nói chất lượng nhân viên ngân hàng là một yếu tố quan trọng để tạo nên sức mạnh cạnh tranh của các NHTM. Trong hoạt động sản xuất kinh doanh dù công nghệ có hiện đại tới đâu, dù có tự động hoá cao đến mức nào thì vẫn cần có con người điều khiển, giám sát mọi hoạt động. Đặc biệt trong lĩnh vực dịch vụ (như lĩnh vực ngân hàng) thì vai trò của con người càng trở nên quan trọng vì quá trình sản xuất diễn ra đồng thời với quá trình tiêu thụ, sản phẩm dịch vụ được tạo ra ngay trong quá trình giao tiếp, trao đổi giữa cán bộ, nhân viên ngân hàng với khách hàng. Cán bộ, nhân viên ngân hàng là những người trực tiếp thực hiện các nghiệp vụ ngân hàng, cung cấp các dịch vụ ngân hàng cho khách hàng, thực hiện chiến lược, định hướng của ban lãnh đạo ngân


hàng. Vì vậy năng lực của đội ngũ cán bộ, nhân viên còn được phản ánh ở khả năng ứng phó xử lý các tình huống nhanh, tác phong chuyên nghiệp và mức độ thành thạo nghiệp vụ... Trình độ nguồn nhân lực cao sẽ tạo ra các sản phẩm dịch vụ có hàm lượng chất xám cao, thể hiện trong kết cấu kĩ thuật và chất lượng của sản phẩm, dịch vụ ... và từ đó uy tín, danh tiếng của ngân hàng sẽ ngày càng tăng, ngân hàng sẽ tạo được vị trí vững chắc của mình trên thương trường và trong lòng công chúng, hướng tới sự phát triển bền vững [10].

Cơ sở vật chất và kỹ thuật: Trong thời đại ngày nay, với tốc độ phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ nói chung, công nghệ trong lĩnh vực ngân hàng nói riêng thì ngân hàng nào có chính sách áp dụng công nghệ hiện đại, khả năng thích ứng công nghệ mới cao và có thể kết hợp với công nghệ của các ngân hàng trong khu vực và trên thế giới sẽ tạo ra cho khách hàng nhiều tiện ích, phục vụ khách hàng tốt hơn, chính là đã tạo ra sức hấp dẫn đối với khách hàng. Cơ sở vật chất còn được thể hiện qua mạng lưới, các vị trí, địa điểm kinh doanh ở những nơi đông dân cư, gần những trung tâm thương mại lớn sẽ có nhiều khả năng tiếp cận với khách hàng hơn và ngược lại. Một quy trình sản phẩm tốt sẽ giúp khả năng xử lý các giao dịch nhanh, chính xác đồng thời giúp cho ngân hàng trong việc quản trị rủi ro tác nghiệp, hạn chế những tổn thất, đảm bảo an toàn cho khách hàng. Đây cũng là yếu tố quan trọng làm hài lòng khách hàng góp phần củng cố vị thế cạnh tranh.

Trình độ công nghệ: Sự tiến bộ của công nghệ thông tin đã góp phần làm thay đổi triết lý kinh doanh trong ngân hàng. Công nghệ không những chỉ góp phần mở rộng mà còn góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh ngân hàng. Áp dụng các công nghệ phù hợp, vừa bảo đảm tạo ra các sản phẩm có chất lượng đáp ứng nhu cầu của thị trường, vừa có chi phí thấp. Ngân hàng điện tử cho phép khách hàng có thể sử dụng các dịch vụ của ngân hàng không qui định về thời gian, không gian là những cách thức giúp ngân hàng phục vụ và giữ khách hàng hiệu quả. Do đó các ngân hàng thương mại phải tập trung vào cách thức đóng gói sản phẩm (bán chéo sản phẩm) và khả năng cung cấp các sản phẩm dịch vụ tài chính mới hiện đại đáp ứng nhu cầu luôn thay đổi của khách hàng. Ứng dụng công nghệ làm cho danh


mục sản phẩm của ngân hàng đa dạng hơn rất nhiều và hoạt động kinh doanh trở nên có hiệu quả hơn do được quản lý một cách khoa học hơn. Một ngân hàng có công nghệ hiện đại sẽ đảm bảo cung ứng những dịch vụ mới nhất và tiên tiến nhất góp phần tạo ra sự khác biệt về sản phẩm và chất lượng dịch vụ của ngân hàng mình so với các đối thủ cạnh tranh.

Các ngân hàng mới: Sự gia nhập của một số ngân hàng mới thành lập và của một số các doanh nghiệp ngoài ngành muốn xâm nhập vào một lĩnh vực kinh doanh hoàn toàn mới thông qua việc thôn tính các ngân hàng cũ hoặc thành lập ra một doanh nghiệp để hoạt động ngân hàng nhằm đa dạng hóa về vị trí địa lý do sở hữu và thành lập các ngân hàng tại nhiều thị trường khác nhau, đa dạng hóa về loại hình sản phẩm và hạn chế tác động của thuế đối với thu nhập hiện tại, khả năng sử dụng đòn bẩy nợ hai chiều hoặc tạo ra những năng lực mới cho công ty. Sự xuất hiện của các ngân hàng mới khi các điều kiện gia nhập ngành ngày càng được nới lỏng do tác động của quá trình hội nhập quốc tế đã làm cho mức độ cạnh tranh của các ngân hàng ngày càng trở nên mạnh mẽ đòi hỏi các ngân hàng phải không ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh để tồn tại [48] [49].

Môi trường bên ngoài tác động đến năng lực cạnh tranh của NHTM

Cạnh tranh ngân hàng dựa trên sự tương tác chặt chẽ và liên tục giữa các chủ thể: ngân hàng - chính phủ (trong việc xây dựng và điều hành hệ thống quốc gia các chuẩn mực, luật lệ và thiết chế xác định các khuyến khích định hình hành vi của các doanh nghiệp), ngân hàng - các ngành phụ trợ (mà đặc biệt là ngành công nghệ thông tin), các ngân hàng đối thủ, ngân hàng - khách hàng hiện tại và tiềm năng,… trong một môi trường kinh tế vĩ mô của quốc gia. Do đó, năng lực cạnh tranh của NHTM còn chịu ảnh hưởng bởi một số nhân tố khác như:

Môi trường kinh tế tài chính toàn cầu

Một nền kinh tế vận hành theo mô hình cạnh tranh hoàn hảo, mức độ mở cửa hội nhập với nền kinh tế thế giới cao (thông qua các cam kết và việc thực hiện các cam kết mở cửa thị trường của Chính phủ), tăng trưởng đều đặn và bền vững,… sẽ tạo điều kiện cho sự phát triển và cạnh tranh của hệ thống ngân hàng, cả trên góc độ


cung lẫn cầu và ngược lại. Ví dụ như tự do hoá tài chính, hiểu theo nghĩa rộng nhất là dỡ bỏ các hạn chế và giới hạn trong phân bổ nguồn lực tín dụng mà theo đó, quá trình phân bổ các nguồn lực này được dựa trên cơ chế giá: các tổ chức tài chính được phép tự quyết định lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay; xoá bỏ quy định về trần lãi suất, giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tự do hoá hoạt động giao dịch ngoại tệ, xoá bỏ bao cấp về vốn thông qua chỉ định tín dụng, nới lỏng kiểm soát đối với hoạt động của các tổ chức tài chính,… chấm dứt việc phân biệt đối xử pháp lý giữa những loại hình tổ chức khác nhau, từ đó thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh giữa các tổ chức tài chính theo cơ chế thị trường [54].

Quá trình tự do hoá và hội nhập tài chính quốc tế sẽ từng bước gắn kết ngành tài chính quốc gia với thị trường tài chính thế giới với một mức độ hợp tác và mở của thị trường ngày càng cao. Xu hướng quốc tế hóa đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ trong hoạt động của ngành ngân hàng thế giới, hình thành lên những tập đoàn tài chính - ngân hàng đa quốc gia với việc huy động vốn trong nước để cho vay ở nước ngoài, thâm nhập vào thị trường nước ngoài thông qua việc thiết lập các chi nhánh, ngân hàng con tại nước ngoài để thu hút vốn và cung cấp các khoản vay, các dịch vụ tài chính tiền tệ ngay tại quốc gia đó, tận dụng lợi thế theo quy mô để tiết kiệm chi phí. Vì vậy, tự do hóa tài chính ảnh hưởng trực tiếp tới mức độ cạnh tranh của các ngân hàng nội địa với các ngân hàng nước ngoài và đồng thời cũng góp phần giúp các ngân hàng hoàn thiện mình để nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường.

Môi trường văn hoá - xã hội.

Các yếu tố xã hội (cơ cấu dân cư, trình độ dân trí, tốc độ đô thị hoá, tập quán tiêu dùng và tiết kiệm,…), tác động trực tiếp lên phía cầu của hoạt động ngân hàng. Trong một môi trường kinh tế phát triển, cơ cấu dân dân số trẻ với trình độ dân trí cao,… thì cầu dịch vụ ngân hàng sẽ phát triển nhanh, nhất là các dịch vụ ngân hàng hiện đại. Dịch vụ ngân hàng là một loại dịch vụ cao cấp, không phải ai cũng tự tin để giao dịch với ngân hàng. Trình độ dân trí càng cao thì khả năng phổ biến các dịch vụ ngân hàng hiện đại càng thuận lợi, dễ dàng và có cơ hội để đổi mới của ngân hàng cũng sẽ cao hơn [12].


Coi trọng đạo đức cũng là một phẩm chất quan trọng đối với các nhân viên ngân hàng. Việc coi trọng đạo đức là cơ sở để ngân hàng giữ chữ tín đối với khách hàng, là chỗ dựa cho niềm tin của công chúng đối với ngân hàng. Một xã hội coi trọng đạo đức cũng là một điều kiện thuận lợi đối với việc nâng cao lợi thế cạnh tranh của ngân hàng.

Do sự đòi hỏi về mức độ tích lũy kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm nên tập quán về sự gắn bó với nghề nghiệp cũng có ý nghĩa rất quan trọng. Nếu người dân ở một nước có thói quen ít thay đổi chỗ làm việc và thường gắn bó với một doanh nghiệp nào đó trong một thời gian dài thì các ngân hàng nước đó sẽ có lợi thế trong việc duy trì và liên tục nâng cao trình độ đội ngũ nhân viên của mình, trên cơ sở đó để nâng cao lợi thế cạnh tranh. Rất nhiều mảng hoạt động của ngân hàng đòi hỏi người lao động phải có trình độ cao và kinh nghiệm tích luỹ liên tục. Ngân hàng cũng là một ngành có tốc độ đổi mới và cải tiến rất cao, vì vậy khả năng tự học, tự đào tạo của các nhân viên sẽ có ý nghĩa quyết định đối với việc duy trì và nâng cao lợi thế cạnh tranh của mỗi ngân hàng. Một xã hội coi trọng việc học tập, rèn luyện cũng là một lợi thế đối với ngành ngân hàng của nước đó.

Môi trường tự nhiên

Môi trường tự nhiên bao gồm nhiều yếu tố ảnh hưởng tới ngân hàng như: môi trường khí hậu, sinh thái, qui mô dân số, tỷ lệ phát triển dân số, xu thế thay đổi về nhân khẩu học hay vị trí địa lý mà ngân hàng có trụ sở hay chi nhánh…Môi trường khí hậu ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp và đời sống của các cá nhân, tổ chức - khách hàng của ngân hàng, từ đó ảnh hưởng tới chính hoạt động kinh doanh của ngân hàng nói chung và ảnh hưởng tới mức độ cạnh tranh của ngân hàng nói riêng.

Môi trường pháp luật và chính trị

Với đặc điểm đặc biệt trong hoạt động kinh doanh của NHTM chịu chi phối và ảnh hưởng của rất nhiều hệ thống pháp luật khác nhau, luật dân sự, luật xây dựng,luật đất đai, luật cạnh tranh, luật các tổ chức tín dụng…Bên cạnh đó, NHTM còn chịu sự quản lý chặt chẽ từ NHNN và được xem là một trung gian để NHNN


thực hiện các chính sách tiền tệ của mình. Do vậy, sức mạnh cạnh tranh của các NHTM phụ thuộc rất nhiều vào chính sách tiền tệ, chính sách tài chính của chính phủ và NHTW. Ngoài những hệ thống và văn bản pháp luật trong nước, các NHTM còn phải chịu những qui định, chuẩn mực chung của tổ chức thương mại thế giới (WTO) trong việc quản trị hoạt động kinh doanh của mình. Do vậy, bất kỳ sự thay đổi nào trong hệ thống chính trị pháp luật, chuẩn mực quốc tế, cũng như chính sách tiền tệ của NHTW sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến năng lực cạnh tranh của các NHTM.

Nói tóm lại, hệ thống chính trị ổn định, pháp luật đầy đủ, đồng bộ sẽ tạo hành lang pháp lý cho các ngân hàng thương mại hoạt động và phát triển an toàn, gia tăng khả năng cạnh tranh.

Môi trường công nghệ

Các ngành phụ trợ, đặc biệt là sự phát triển và khả năng ứng dụng của ngành công nghệ thông tin: Việc phát triển của ngành bảo hiểm, thị trường chứng khoán giúp san xẻ bớt “gánh nặng” cung tín dụng cho nền kinh tế, giúp các ngân hàng tập trung vào phát triển các hoạt động dịch vụ tài chính tiền tệ. Trình độ công nghệ thông tin càng phát triển thì mức độ cạnh tranh giữa các ngân hàng sẽ càng cao vì nó góp phần xóa bỏ các ranh giới về địa lý giữa các ngân hàng. Công nghệ thông tin phát triển tạo cơ sở cho ngành ngân hàng phát triển các ứng dụng gia tăng năng lực quản lý hệ thống, gia tăng dịch vụ và tiện ích cho khách hàng. Vì vậy, làm gia tăng năng lực cạnh tranh của các ngân hàng lẫn nhau, làm cho môi trường cạnh tranh ngày càng hiệu quả hơn [44].

1.1.7. Phương pháp đánh giá năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại

1.1.7.1. Phương pháp định tính

Định nghĩa: Phương pháp phân tích định tính là phương pháp thu thập dữ liệu bằng chữ và là phương pháp tiếp cận nhằm tìm cách mô tả và phân tích đặc điểm của sự vật, hiện tượng từ quan điểm của nhà phân tích.

Lý thuyết: Nghiên cứu định tính theo hình thức quy nạp, tạo ra lý thuyết, phương pháp nghiên cứu định tính còn sử dụng quan điểm diễn giải, không chứng minh chỉ có giải thích và dùng thuyết kiến tạo trong nghiên cứu.

Xem tất cả 173 trang.

Ngày đăng: 15/05/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí