tiếp theo đó là Fama and Jensen (1983). Theo các tác giả, một số nhà quản lý vì có được những kỹ năng đặc biệt và những kiến thức về quản lý công ty tốt hơn các chủ sở hữu công ty nên các chủ sở hữu sẵn sàng thuê và giao quyền quản lý hoặc quyền ra quyết định kiểm soát của mình cho các nhà quản lý này (Fama and Jensen, 1983). Nhà quản lý đại diện cho chủ sở hữu thực hiện việc quản lý công ty nhưng họ chỉ nhận được lợi ích duy nhất từ lương. Tuy nhiên, cả hai chủ thể này đều muốn tối đa hóa lợi ích riêng của mình nên đã xảy ra xung đột về lợi ích. Sự xung đột về lợi ích giữa người đại diện và chủ sở hữu trong điều kiện thông tin bất cân xứng làm phát sinh chi phí đại diện. Việc thực hiện công bố thông tin sẽ áp đặt một loại chi phí lên công ty niêm yết, và làm tăng chi phí giao dịch liên quan đến việc lập báo cáo, công bố thông tin, và chi phí do thông tin công bố gây ra. Do đó, công ty niêm yết thường né tránh áp dụng thông lệ quản trị công ty tốt để không phải công khai thông tin quản trị công ty. Kết quả là kết quả kinh doanh kém đi trong trung hạn.
Theo Jensen and Meckling (1976) chi phí đại diện càng cao thì hiệu quả hoạt động kinh doanh của công ty càng thấp và ngược lại. Theo Bushman and Smith (2003) minh bạch và công bố thông tin của công ty niêm yết sẽ làm giảm chi phí đại diện và làm tăng lợi thuận thông qua việc cung cấp nhiều thông tin hơn cho việc ra các quyết định đầu tư (giảm ảnh hưởng của lựa chọn bất lợi), giám sát quản trị công ty và làm giảm chi phí do thông tin bất cân xứng tạo ra. Minh bạch công bố thông tin giúp các cổ đông giám sát các quyết định của người đại diện tốt hơn, qua đó làm giảm các chi phí đại diện. Vì vậy, mức độ minh bạch và công bố thông tin của công ty có tương quan thuận với hiệu quả tài chính của công ty. Một số yếu tố quản trị công ty như cấu trúc sở hữu, số thành viên độc lập trong Hội đồng quản trị, tỷ số nợ có ảnh hưởng đến chi phí đại diện (Phạm Thị Vân Huyền, 2020) và tác động lên hiệu quả tài chính của công ty.
Một số nghiên cứu thực nghiệm đo lường ảnh hưởng của mức độ minh bạch và công bố thông tin đến hiệu quả tài chính của các công ty đã được công bố. Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng mức độ minh bạch và công bố thông tin có mối tương quan thuận với hiệu quả tài chính của các công ty, trong khi một vài nghiên cứu lại tìm thấy các bằng chứng để đi đến kết luận ngược lại. Patel and Dallas (2002) đã chỉ ra rằng các công ty có mức độ minh bạch và công bố thông tin cao sẽ làm tăng hiệu quả tài chính công ty. Ngoài ra, mối tương quan thuận giữa mức độ minh bạch và công bố thông tin và hiệu quả tài chính công ty còn được tìm thấy trong các nghiên cứu của Bushman and Smith (2003), Aksu and Kosedag (2006), Iatridis (2008), Stiglbauer (2010). Trái ngược với kết quả các nghiên cứu ở trên,
Bassen et al., (2009) đã tìm thấy các bằng chứng thực nghiệm để kết luận rằng mức độ công bố thông tin có mối tương quan nghịch với hiệu quả hoạt động kinh doanh của các công ty ở Đức. Tương tự, Zaman et al., (2015) kết luận mức độ minh bạch và công bố thông tin cấu trúc sở hữu có mối tương quan nghịch với hiệu quả tài chính được đo lường bằng ROA và ROE của các ngân hàng ở Pakistan. Ngoài ra, Banerjee et al., (2015) phát hiện mối tương quan nghịch giữa mức độ minh bạch và công bố thông tin với hiệu quả hoạt động kinh doanh của các công ty ở Nga. Trên TTCK Việt Nam, sử dụng mẫu nghiên cứu bao gồm 354 công ty niêm yết trên Sở GDCK Hà Nội, Lê Quang Cảnh và Nguyễn Vũ Hùng (2016) cũng tìm thấy mối tương quan nghịch giữa mức độ công bố thông tin với hiệu quả tài chính được đo lường bằng tỷ số lợi nhuận trên tài sản (ROA). Hoàng Thị Phương Anh và cộng sự (2018) kết luận chất lượng thông tin công bố trên báo cáo tài chính có ảnh hưởng đến hiệu quả đầu tư vào công ty niêm yết. Hồ Việt Tiến và Nguyễn Đình Khôi (2017), Trần Thị Hải Lý và Nguyễn Kim Đức kết luận công bố thông tin theo chỉ số quản trị công ty có ảnh hưởng tích cực đến giá trị công ty. Kết quả nghiên cứu của Adiloglu and Vuran (2012), Rashid et al., (2015), Gonzalez et al., (2019) cho biết các công ty minh bạch và công bố thông tin tốt có chi phí tài chính thấp hơn và do đó hiệu quả tài chính sẽ cao hơn.
Trên cơ sở lý thuyết và các bằng chứng thực nghiệm được lược khảo ở trên, giả thuyết nghiên cứu sau được đề xuất:
H12: Mức độ minh bạch và công bố thông tin có mối tương quan thuận với hiệu quả tài chính của các công ty niêm yết.
* Các biến kiểm soát trong mô hình ước lượng
Quy mô công ty: Theo kinh tế học vi mô, các công ty có quy mô càng lớn thì càng có lợi trong hoạt động kinh doanh do tận dụng hiệu quả quy mô trong sản xuất. Vì vậy, quy mô công ty được kỳ vọng có mối tương quan thuận với hiệu quả hoạt động kinh doanh của các công ty niêm yết. Nghiên cứu của Zaman et al., (2015), Gonzalez et al., (2019) cũng thừa nhận mối quan hệ cùng chiều giữa quy mô công ty và lợi nhuận của công ty niêm yết. Võ Xuân Vinh (2014), Hoàng Thị Phương Thảo và cộng sự (2015), Trần Thị Kim Oanh và Hoàng Thị Phương Anh (2017), Đinh Thị Thu Hiền và cộng sự (2020) cho biết quy mô công ty không có ảnh hưởng đến hiệu quả tài chính của các công ty niêm yết. Nghiên cứu của Huỳnh Thị Tuyết Phượng (2016) kết luận quy mô công ty có mối tương quan thuận với hiệu quả tài chính của các công ty niêm yết. Võ Văn Dứt và cộng sự (2020) kết luận quy mô công ty có mối tương quan nghịch với hiệu quả tài chính của các
công ty niêm yết đo bằng tỷ số ROA điều chỉnh. Từ những bằng chứng trên, luận án kỳ vọng quy mô công ty có mối tương quan thuận với hiệu quả tài chính công ty niêm yết.
Đòn bẩy tài chính: Nghiên cứu của Tô Lan Phương (2015) khi phân tích mối quan hệ giữa lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu và đòn bẩy tài chính đã kết luận đòn bẩy tài chính quan hệ ngược chiều với tỷ số ROE. Trần Thị Kim Oanh và Hoàng Thị Phương Anh (2017) kết luận đòn bẩy tài chính quan hệ ngược chiều hiệu quả tài chính công ty niêm yết đo bằng tỷ số ROE. Tương tự, Gonzalez et al., (2019) kết luận đòn bẩy tài chính có ảnh hưởng ngược chiều đến tỷ số ROE. Nghiên cứu của Lê Quang Cảnh và cộng sự (2015), Hồ Việt Tiến và Nguyễn Đình Khôi (2017), Võ Văn Dứt và cộng sự (2020) kết luận đòn bẩy tài chính có ảnh hưởng ngược chiều đến tỷ số ROA. Luận án kỳ vọng đòn bẩy tài chính có mối tương quan nghịch với hiệu quả tài chính công ty niêm yết.
Đặc điểm quản trị công ty: Quy mô hội đồng quản trị công ty có ảnh hưởng cùng chiều với hiệu quả hoạt động công ty niêm yết (Klein, 2002; Coles et al., 2008). Sự đa dạng kinh nghiệm trong quản lý công ty của hội đồng quản trị sẽ cải thiện hiệu quả kinh doanh. Tuy nhiên, nghiên cứu của Guest (2009) tại TTCK Anh, Võ Hồng Đức và Phan Bùi Gia Thủy (2013), Lê Quang Cảnh và cộng sự (2015) tại TTCK Việt Nam kết luận quy mô hội đồng quản trị có mối tương quan nghịch chiều đến hiệu quả hoạt động của công ty. Luận án kỳ vọng quy mô hội đồng quản trị có mối tương quan nghịch với hiệu quả tài chính công ty.
Kiêm nhiệm của chủ tịch Hội đồng quản trị: Theo lý thuyết người đại diện, sự không tách biệt giữa chủ sở hữu và người quản lý sẽ gây thiệt hại cho công ty do người đại diện có cơ hội tối đa hoá lợi ích cá nhân hơn là lợi ích của các cổ đông. Các công ty có chủ tịch HĐQT kiêm Tổng giám đốc có hiệu quả hoạt động kém hơn các công ty có chủ tịch HĐQT không kiêm nhiệm (Truong et al., 2006; Phạm Đức Cường, 2016). Tuy nhiên, Lê Quang Cảnh và cộng sự (2015) kết luận chủ tịch HĐQT kiêm Tổng giám đốc có mối tương quan thuận với hiệu quả tài chính công ty niêm yết đo bằng tỷ số ROA. Luận án kỳ vọng sự kiêm nhiệm của chủ tịch HĐQT có tác động tiêu cực đến đến hiệu quả tài chính công ty.
Cấu trúc sở hữu: Mehran (1995) kết luận rằng có mối quan hệ cùng chiều giữa tỷ lệ sở hữu quản trị với hiệu quả hoạt động của công ty niêm yết. Tương tự, Võ Hồng Đức và Phan Bùi Gia Thủy (2013), Đinh Thị Thu Hiền và cộng sự (2020) kết luận tỷ lệ sở hữu quản trị của các công ty niêm yết tại TTCK Việt Nam quan hệ cùng chiều với kết quả hoạt động công ty. Võ Văn Dứt và cộng sự (2020) cho
biết tỷ lệ sở hữu nước ngoài có quan hệ thuận với hiệu quả tài chính công ty niêm yết. Võ Xuân Vinh (2014) tìm thấy tỷ lệ sở hữu quản trị và sở hữu nước ngoài không ảnh hưởng đến hiệu quả tài chính công ty. Từ những bằng chứng trên, luận án kỳ vọng tỷ lệ sở hữu quản trị, sở hữu nước ngoài có mối tương quan thuận với hiệu quả tài chính công ty niêm yết.
Nơi niêm yết: Nhiều kết quả nghiên cứu cho thấy niêm yết chéo tại Sở GDCK lớn, uy tín làm cải thiện hiệu quả tài chính, giá trị công ty. Kết quả nghiên cứu của nhiều tác giả cho biết Sở GDCK niêm yết có ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin của công ty niêm yết (Hope et al., 2007; Christiansen and Koldertsova, 2009; Urquiza et al., 2010; Jian, 2011; Eng and Ling, 2012) và làm cải thiện hiệu quả tài chính, giá trị công ty. Baker et al., (2002), Lang et al., (2003) Doidge et al., (2004) kết luận các công ty niêm yết ở quốc gia có môi trường công bố thông tin thấp muốn niêm yết tại TTCK Luân Đôn và Hoa Kỳ vì muốn cải thiện giá trị công ty. Jian et al., (2011) tìm thấy hiệu quả tài chính của các công ty Trung Quốc tăng lên khi niêm yết chéo tại Sở GDCK Hồng Kông. Từ những bằng chứng trên, luận án kỳ vọng nơi niêm yết chứng khoán có mối tương quan thuận với hiệu quả tài chính công ty.
CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
4.1 XÂY DỰNG BỘ TIÊU CHÍ ĐO MỨC ĐỘ MINH BẠCH VÀ CÔNG BỐ THÔNG TIN TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
4.1.1 Khảo sát và so sánh các chỉ số minh bạch và công bố thông tin của quốc tế và Việt Nam
Viện Nghiên cứu chứng khoán và hợp đồng tương lai (Securities and Futures Institute - SFI) của Đài Loan đã xây dựng hệ thống xếp hạng minh bạch và công bố thông tin (IDTRS) vào năm 2003. Các công ty niêm yết được phân loại và xếp hạng theo 5 nhóm tiêu chí A’, A, B, C, và D. Chỉ số IDTRS là một sự điều chỉnh của chỉ số quản trị công ty theo OECD (2004) phù hợp với điều kiện kinh doanh của các công ty niêm yết tại Đài Loan. Chỉ số này tăng trọng số hai yếu tố các bên có quyền lợi liên quan (từ 5% lên 18%), trách nhiệm của HĐQT và vận hành công ty (từ 30% lên 32%). Tuy nhiên, tiêu chí minh bạch thông tin tài chính và đối xử công bằng với các cổ đông thì giảm trọng số lần lượt là từ 30% xuống 22% và từ 20% xuống 13%. Điều này cho thấy môi trường đầu tư tại Đài Loan chưa chú trọng nhiều đến trách nhiệm minh bạch và công bố thông tin tài chính của công ty niêm yết.
Patel and Dallas (2002) đề xuất bộ tiêu chí đánh giá sự minh bạch và công bố thông tin cho các công ty niêm yết tại TTCK Mỹ và được vận dụng cho đến nay. Chỉ số T&D của Standard and Poor được xây dựng với 98 câu hỏi phải trả lời ở hai mức độ “có và không”. Minh bạch công bố thông tin của các công ty niêm yết được đánh giá chủ yếu dựa trên báo cáo tài chính, báo cáo thường niên. Cấu trúc bộ tiêu chí minh bạch công bố thông tin theo Standard and Poor như sau: minh bạch thông tin về cấu trúc sở hữu và quyền của nhà đầu tư chiếm 28 câu hỏi; minh bạch thông tin về tài chính, kết quả kinh doanh, chính sách kế toán, và quản trị tài chính có 35 câu hỏi; minh bạch thông tin về cấu trúc và hoạt động của hội đồng quản trị, ban giám đốc, khen thưởng, đánh giá nhà quản trị có 35 câu hỏi. Chỉ số T&D của Standard and Poors áp dụng cho các công ty tại thị trường chứng khoán Mỹ và một số thị trường chứng khoán có xu hướng thiên về chính sách quản trị công ty. Tiêu chí Hội đồng quản trị và vận hành công ty, minh bạch trong công bố thông tin tài chính chiếm tỷ trọng 35,5%; tiêu chí cơ cấu sở hữu và quyền
của các nhà đầu tư ít quan trọng hơn chiếm tỷ trọng 29%. Phân bố các tiêu chí cho thấy có sự giảm đi việc đảm bảo quyền lợi của các cổ đông và các bên có liên quan so với chỉ số quản trị công ty của OECD (2004).
Chỉ số GTI của Trung tâm Quản trị, Thể chế và Tổ chức (CGIO) - Đại học Quốc gia Singapore tách biệt rõ hai phần trong chỉ số: quản trị công ty và công bố thông tin với trọng số lần lượt là 75% và 25%. Kết quả chỉ số này cho thấy chỉ số minh bạch trên thị trường chứng khoán Singapore có xu hướng thiên về quản trị công ty và giảm tầm quan trọng của minh bạch thông tin. Có rất ít tài liệu nghiên cứu liên quan đến chỉ số này được công bố. Kết quả trình bày tại bảng 4.1.
Bảng 4.1: Các tiêu chí đánh giá công bố thông tin của các chỉ số quốc tế
Nội dung tiêu chí | QTCT1 | TDS2 | IDTRS3 | GTI4 | |
1 | Quyền của cổ đông | 21 câu (15%) | (15%) | ||
2 | Đối xử công bằng với cổ đông | 18 câu (20%) | (13%) | ||
3 | Các bên có quyền lợi liên quan | 8 câu (5%) | (18%) | ||
4 | Công bố thông tin minh bạch | 32 câu (30%) | (22%) | (25%) | |
5 | Trách nhiệm của HĐQT và BKS | 31 câu (30%) | (32%) | ||
6 | Cơ cấu sở hữu và quyền của NĐT | 28 câu (29%) | |||
7 | Minh bạch trong CBTT tài chính | 35 câu (35,5%) | |||
8 | HĐQT và vận hành công ty | 35 câu (35,5%) | |||
9 | Quản trị công ty | (75%) | |||
Tổng số | 100% | 100% | 100% | 100% |
Có thể bạn quan tâm!
- Phương Pháp Hồi Quy Hiệu Ứng Ngẫu Nhiên Và Hiệu Ứng Cố Định
- Mô Hình Ước Lượng Ảnh Hưởng Của Minh Bạch Và Công Bố Thông Tin Đến Chi Phí Vốn Cổ Phần
- Mô Hình Ước Lượng Ảnh Hưởng Của Minh Bạch Và Công Bố Thông Tin Đến Lợi Nhuận Của Các Công Ty Niêm Yết
- Bộ Tiêu Chí Mức Độ Minh Bạch Và Công Bố Thông Tin Của Công Ty Niêm Yết Trên Thị Trường Chứng Khoán Việt Nam
- Đặc Điểm Quản Trị Công Ty Và Tài Chính Công Ty
- Các Yếu Tố Ảnh Hưởng Đến Mức Độ Minh Bạch Và Công Bố Thông Tin Công Ty Niêm Yết
Xem toàn bộ 319 trang tài liệu này.
Ghi chú: (1) chỉ số quản trị – CGS (OECD, 2004); (2) chỉ số minh bạch và công bố thông tin
(S&P, 2002); (3) hệ thống xếp hạng minh bạch và công bố thông tin tại Đài Loan (SFI, 2004);
(4) GTI: chỉ số minh bạch và công bố thông tin của Singapore (CGIO)
Để đánh giá tình hình quản trị công ty và minh bạch trong công bố thông tin của các công ty niêm yết tại Việt Nam, Tổ chức tài chính quốc tế (IFC) áp dụng thí điểm báo cáo Thẻ điểm quản trị công ty tại Việt Nam năm 2012 với cở mẫu l00 công ty niêm yết tại thị trường chứng khoán Việt Nam. Sau đó kết quả bước đầu này được vận dụng để đánh giá các công ty niêm yết tại Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội trong hai năm 2014 và 2015. Trong năm 2016, Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội áp dụng báo cáo Thẻ điểm quản trị công ty kết hợp với các quy định của Chính phủ Việt Nam về công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán để đánh giá các công ty niêm yết tại Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội trong hai năm 2014 và 2015. Minh bạch và công bố thông tin của công ty niêm yết chỉ được xét một phần nhỏ trong bộ chỉ số quản trị công ty, chiếm 30%.
Sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 vấn đề minh bạch công bố thông tin trở nên cấp thiết hơn trên thị trường tài chính Việt Nam. Tower et al., (2011) đã thực hiện xây dựng bộ chỉ số công bố thông tin của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam với 84 tiêu chí và khảo sát trên 45 công ty với dữ liệu từ báo cáo thường niên. Binh (2012) thực hiện xây dựng một bộ chỉ số tương tự với nguồn thông tin từ báo cáo thường niên của công ty niêm yết khảo sát trên thị trường chứng khoán Việt Nam năm 2009. Hai nghiên cứu tập trung vào khoảng hở công bố thông tin tài chính của ban quản trị công ty và yêu cầu công bố thông tin tài chính của công ty niêm yết. Ngoài ra, Trương Đông Lộc và Nguyễn Thị Kim Anh (2016) đã xây dựng bộ chỉ số minh bạch và công bố thông tin với 53 tiêu chí đánh giá dựa trên tiêu chuẩn Standard and Poors (2002) khảo sát với 278 công ty niêm yết tại HOSE trong năm 2014.
Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội thực hiện khảo sát công bố thông tin và minh bạch của các công ty niêm yết tại HNX năm 2016. Điểm công bố thông tin và minh bạch của các công ty niêm yết trung bình là 50,8 điểm % năm 2015 và 51,3 điểm % năm 2016. Các công ty niêm yết tập trung thực hiện các tiêu chí tuân thủ, công bố thông tin theo thông lệ, tự nguyện còn ít và có xu hướng giảm đi khi so kết quả năm 2016 với năm 2015. Yếu tố ảnh hưởng tích cực đến công bố thông tin là tỷ lệ sở hữu nước ngoài, thành viên độc lập trong Hội đồng quản trị, kết quả kinh doanh đo bằng ROE và ROA. SỞ G
Các bộ chỉ số trên được sử dụng như là cơ sở phân tích tham khảo trong quá trình xây dựng bộ tiêu chí đánh giá mức độ minh bạch và công bố thông tin của công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Mặt khác, việc đánh giá chất lượng công bố thông tin và minh bạch được thực hiện theo các nguồn dữ liệu công bố của công ty niêm yết, nên trong trường hợp công ty thực hiện tốt các hoạt động công bố thông tin nhưng không công bố cho công chúng sẽ bị coi là không minh bạch trong công bố thông tin (Bảng 4.2).
Bảng 4.2: Các bộ chỉ số minh bạch và công bố thông tin đã sử dụng trên thị trường chứng khoán Việt Nam
Nội dung CGS - IFC 1 VnDI 2 TDS 3
Cở sở xây dựng chỉ số OECD (2004) CG in Malaysia S&P (2002); TT52, TT121 Số tiêu chí đánh giá 110 84 53
Số công ty khảo sát 100 45 278
Sở Giao dịch khảo sát HOSE, HNX HOSE, HNX HOSE
Thời gian áp dụng 2012 2008 2015
Số điểm trung bình 42,5 24,2 78,6
CGS : Thẻ điểm quản trị công ty -Tổ chức tài chính thế giới (2012) VnDI: Vietnamese voluntary disclosure index (Tower et al., 2011)
TDS: Transparency and disclosure score – Trương Đông Lộc và Nguyễn Thị Kim Anh (2016)
4.1.2 Cơ sở thiết lập bộ chỉ số minh bạch và công bố thông tin của luận án
4.1.2.1 Thông tư 155 /2015 /TT-BTC năm 2015
Minh bạch và công bố thông tin của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam được quy định thực hiện theo Thông tư 155 tại chương 1 với các điều 3, 4, 5, 6, 7; chương 2 với các điều 8, 9, 10; chương 3 với các điều 11, 12,
13; chương 7 với các điều 26, 27, 28, 30, 31. Công ty niêm yết áp dụng các báo cáo tài chính, báo cáo kế toán tuân thủ theo chuẩn mực kế toán Việt Nam (TT200/2014/BTC hoặc TT133/2016/BTC), báo cáo thường niên và báo cáo quản trị công ty áp dụng theo TT155/2015/BTC. Hệ thống báo cáo công bố thông tin của công ty đại chúng theo Thông tư 155 phát triển chi tiết; tính tuân thủ của các điều kiện tài chính và quản trị trong Thông tư 155 góp phần đánh giá rõ tính minh bạch và công bố thông tin của công ty niêm yết.
4.1.2.2 Thông tư 121/2012/TT-BTC năm 2012
Các nội dung quy định quản trị công ty của công ty niêm yết phải tuân thủ trong nội dung Thông tư 121 được cụ thể hóa trong Thông tư 155. Công ty niêm yết thực hiện minh bạch và công bố thông tin theo Thông tư 155 thì thực thi các điều kiện trong Thông tư 121. Nội dung Thông tư 121 chưa cụ thể hóa các báo cáo quản trị công ty của công ty đại chúng; tuy nhiên, hướng dẫn thực hiện Thông tư 155 về các báo cáo quản trị đã thực thi các nội dung của Thông tư 121 còn thiếu sót.
4.1.2.3 Bộ tiêu chí minh bạch và công bố thông tin của Standard and Poors
Patel xây dựng bộ tiêu chí minh bạch và công bố thông tin theo S&P năm 2002 và được áp dụng rộng rãi trong đánh giá tính minh bạch trong công bố thông tin của