1.2. Ở Việt Nam
Việc khảo nghiệm chọn loài, chọn xuất xứ và chọn giống trồng rừng cũng đã được các nhà khoa học trong nước quan tâm nghiên cứu từ rất sớm. Tuy nhiên, tập trung nhiều nhất vào những năm 80 của thế kỷ trước. Bắt đầu từ dự án PAM đã nhập hàng chục tấn hạt keo và bạch đàn vào trồng ở các tỉnh miền núi nước ta. Mục tiêu ban đầu chỉ là phủ xanh đất trống đồi núi chọc, tạo dựng hoàn cảnh môi trường sinh thái, sau đó mới là lấy gỗ làm bột giấy. Đến những năm cuối của thế kỷ XX, việc trồng rừng thâm canh cung cấp nguyên liệu cho chế biến bột giấy và ván nhân tạo mới được quan tâm nghiên cứu và phát triển mạnh. Có thể tóm tắt các công trình nghiên cứu theo các lĩnh vực điển hình sau đây:
1.2.1. Các nghiên cứu khảo nghiệm giống
Do đặc thù của cây lâm nghiệp với chu kỳ dài tới hàng chục năm, nếu chọn được những giống tốt phù hợp nó sẽ mang lại hiệu quả kinh tế cao trong đầu tư trồng rừng. Trước đây các dự án trồng rừng của nhà nước chủ yếu trồng các loài cây như thông mã vĩ và thông nhựa, tuy nhiên hai loài cây này hiện nay so với cây Thông caribê thì kém hơn hẳn về khả năng sinh trưởng. Đặc biệt cây Thông caribê là cây có thể sinh trưởng tốt trên các lập địa mà các cây trồng khác khó có thể sinh trưởng tốt. Do vậy cây Thông caribê hiện nay đã được Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đưa vào danh lục các loài cây trồng chính trên một số vùng sinh thái của nước ta.
Thông caribê được nhập vào trồng thử nghiệm ở nước ta từ năm 1963 tại Lâm Đồng (theo Lê Đình Khả, 1999).[8] Tiếp tục được khảo nghiệm khá hoàn chỉnh theo dự án Sida ở Phú Thọ trong giai đoạn 1978 - 1984 (Stahl, 1984) [29]. Từ năm 1980 đến 1990, Trung tâm nghiên cứu giống cây rừng thuộc Viện Khoa học lâm nghiệp Việt Nam phối hợp với nhiều cơ quan trong và ngoài Viện, đã tiến hành khảo nghiệm Thông caribê trên các vùng trồng khác nhau của nước ta. Các kết quả nghiên cứu bước đầu cho thấy Thông caribê là loài cây có sinh trưởng nhanh , thích ứng rộng với nhiều vùng sinh thái (Lê Đình Khả, 1980, 1996, 1999)[7][8][9]. Đặc biệt Thông caribê sinh trưởng khá tốt trên các vùng đất trống, đồi trọc nghèo dinh
dưỡng, một bộ phận đất đai rất lớn ở nước ta (Phí Quang Điện, 1981 - 1985, 1989).[4]
Điều đó cho thấy Thông caribê là một trong số những loài cây trồng rừng có triển vọng cung cấp gỗ với nhiều công dụng như: làm gỗ xây dựng, gỗ trụ mỏ, ván dăm, ván ép, bột sợi giấy dai, gỗ đóng tàu thuyền, ván ốp tường, gỗ đóng Contenơ, gỗ làm cột điện, gỗ làm cột nhà, gỗ đóng đồ nội thất, v.v.., cho nền kinh tế quốc dân, đồng thời sớm nâng cao độ che phủ của rừng, góp phần ổn định môi trường sinh thái. Vì vậy, Thông caribê đang được nhiều cơ quan và nhiều cơ sở sản xuất lâm nghiệp hết sức quan tâm.
Kết quả khảo nghiệm Thông caribê tại Đà Lạt năm 1963, bước đầu cho thấy PCH của Thông caribê có sinh trưởng nhanh, hình dáng thân đẹp, thân cao, thon đều, tán lá nhỏ, cành mọc ngang có tốc độ sinh trưởng nhanh hơn Thông ba lá. Ở tuổi 12, cây cao bình quân 14,3 m và đường kính ngang ngực bình quân đạt 16,3 cm, tăng trưởng bình quân về chiều cao là 1,19 m và đường kính là1,35 cm. Ở tuổi 16, cây cao bình quân 19,9 m, đường kính ngang ngực trung bình 27,9 cm, tăng trưởng chiều cao bình quân là 1,24 m/ năm và đường kính là 1,65 cm / năm. Khảo nghiệm tại Mang Linh cho thấy PCH trồng trên đất feralit vàng đỏ phát triển trên đá mẹ Granit có tầng đất sâu, ẩm có lớp mùn khá dày có sinh trưởng nhanh hơn Thông Ba lá Đà Lạt. Sau 16 năm trồng, cây có chiều cao bình quân là 17 m và đường kính là 16,6 cm, tăng trưởng bình quân hàng năm về chiều cao là 1,21 - 1,22 m/ năm và đường kính là 1,76 - 1,80 cm/ năm (Lê Đình Khả, Hồ Viết Sắc, 1980).[7]
Có thể bạn quan tâm!
- Khảo nghiệm mở rộng một số loài có triển vọng và biện pháp kỹ thuật trồng rừng ở vùng núi cao miền Bắc Việt Nam - 1
- Khảo nghiệm mở rộng một số loài có triển vọng và biện pháp kỹ thuật trồng rừng ở vùng núi cao miền Bắc Việt Nam - 2
- Nội Dung 1: Đánh Giá Khả Năng Sinh Trưởng Của Thông Caribê Trong Mô Hình Khảo Nghiệm Loài Tại Hai Tỉnh Cao Bằng Và Tỉnh Yên Bái.
- Đặc Điểm Khí Hậu, Địa Hình, Đất Đai Khu Vực Nghiên Cứu
- Sinh Trưởng Thông Caribê Trong Mô Hình Khảo Nghiệm Loài Tại Cao Bằng Và Tỉnh Yên Bái
Xem toàn bộ 97 trang tài liệu này.
Năm 1976, Viện nghiên cứu cây nguyên liệu giấy đã xây dựng 4 khảo nghiệm loài và xuất xứ để đánh giá sự sai khác giữa các loài và biến dị xuất xứ bên trong loài. Các khảo nghiệm này bao gồm tất cả 3 biến chủng của Thông caribe. Kết quả chỉ ra rằng Thông caribê có khả năng sinh trưởng khá ở vùng miền Bắc Việt Nam với xuất xứ tốt nhất (Mountain Pine Ridge, 206) có thể đạt độ cao gần 20m ở giai đoạn 25 năm tuổi trên lập địa Sơn Nam. Những kết quả được quan sát ở đây chỉ ra mức độ sai khác về khả năng sinh trưởng giữa các xuất xứ của PCH là khá nhỏ, song PCC lại sinh trưởng khá chậm so với PCB hoặc PCH, và được xem như không phù hợp với lập địa miền Bắc Việt Nam. Trái lại PCB có sinh trưởng chiều cao
nhanh nhất ở giai đoạn 8 năm tuổi và nằm trong nhóm thứ 2 chỉ sau xuất xứ Mountain Pine Ridge của PCH ở giai đoạn 25 năm tuổi (Dieter et al., 2006) Trong số các xuất xứ PCH được khảo nghiệm, thì nhóm xuất xứ vùng cao Poptún và Mountain Pine Ridge chứng tỏ khả năng sinh trưởng tốt hơn xuất xứ Guanaja.
Giai đoạn 1978 – 1982: Một khảo nghiệm xuất xứ khá đầy đủ theo dự án Sida tại Phú Thọ (thuộc Vĩnh Phú cũ) (P.Stahl, 1984) [29]. Vật liệu nghiên cứu gồm 4 loài Thông: Thông nhựa (P. merkusii) với 5 xuất xứ, Thông ba lá (P.kesya) với 6 xuất xứ, Thông oocarpa (P. oocarpa) với một xuất xứ, Thông caribê (P. caribaea) gồm 3 biến chủng, trong đó PCC (1 xuất xứ), biến chủng Bahamesis (1 xuất xứ) và biến chủng Hodurensis (4 xuất xứ). Khảo nghiệm được xây dựng trên 4 địa điểm là Thái Long, Sơn Nam (Tuyên Quang), Đền Hùng và Yên Kiện (Vĩnh Phú cũ). Trong 4 loài thông đưa vào khảo nghiệm thì Thông caribê là loài có sinh trưởng nhanh nhất, còn trong các biến chủng Thông caribê được khảo nghiệm thì PCH có sinh trưởng nhanh nhất, tiếp đến là PCB và cuối cùng là PCC. Tại Thái Long và Sơn Nam, nhìn chung các xuất xứ của PCH sinh trưởng tốt. Tăng trưởng đường kính hàng năm tại Sơn Nam là 1,88 cm/ năm, tại Thái Long là 2,76 cm/ năm, thấp nhất ở Đền Hùng là 1,76 cm/ năm và Yên Kiên là 1,95 cm/ năm. Tăng trưởng chiều cao bình quân trong khảo nghiệm tại Thái Long là cao nhất 1,23 m/ năm, tiếp theo là Yên Kiện 1,14 m/ năm, Đền Hùng 1.10 m/ năm và thấp nhất là ở Sơn Nam (0,97 m/ năm (Lê Đình Khả, Phí Quang Điện, Đoàn Văn Nhưng,1989) [3]. Kết quả khảo nghiệm ở tuổi 8 cho thấy trong 3 biến chủng Thông caribê thì PCH và PCB là hai biến chủng có sinh trưởng nhanh nhất, PCC có sinh trưởng kém nhất. Những xuất xứ có sinh trưởng tốt của hai biến chủng này là xuất xứ Poptun (Guatemala), Guanaja (Honduras), Cardwell (Queensland, Australia), Almicamba (Nicaragua) và Andros (Bahamas). Tác giả cũng đã đi đến kết luận: ở khu vực này nếu trồng rừng quy mô lớn chỉ tập trung vào các xuất xứ tốt của PCH và PCB (Stahl, 1988). Trong báo cáo của Ståhl (1988), ông đã nhấn mạnh một vấn đề là nhìn chung PCB có thân thẳng hơn, ít thót ngọn hơn PCH ở tất cả các khảo nghiệm, cũng như ở Queensland và một số nơi khác trên thế giới. Một điều chắc chắn rằng PCB có độ dày vỏ mỏng hơn PCH. Khi những đặc tính (hình dáng thân đẹp, ít thót ngọn và vỏ mỏng hơn)
kết hợp với nhau thì chắc chắn PCB có thể cho lượng sinh khối có khả năng sử dụng lớn hơn PCH khi được trồng ở các tỉnh miền Bắc Việt Nam. Hơn nữa, PCB vẫn được biết về khả năng chống chịu tốt với sâu bệnh hại có thể cũng là một ưu thế hơn PCH trên một số khảo nghiệm ở các tỉnh miền Bắc.
Từ năm 1980 đến 1990, Trung tâm nghiên cứu giống cây rừng phối hợp với nhiều cơ quan trong và ngoài Viện bố trí khảo nghiệm ở nhiều vùng trồng khác nhau trong cả nước như: Đại Lải (Vĩnh Phúc), Ba Vì (Hà Tây), Yên Lập (Quảng Ninh), Đại Huệ (Nghệ An), Đông Hà (Quảng Trị), Pleyku (Gia Lai), Sông Mây (Đồng Nai), Hàm Thuận (Nam Bình Thuận). Kết quả đánh giá cho thấy giai đoạn sau 9 năm trồng khảo nghiệm Thông caribê tại Đại Lải (Vĩnh Phúc), Đông Hà (Quảng Trị), Sông Mây (Đồng Nai),vv.., tăng trưởng chiều cao bình quân của các xuất xứ Thông caribê từ 1,2 m - 1,6 m/năm, tăng trưởng về đường kính từ 1,1 cm - 1,4 cm/năm. Kết quả bước đầu cho thấy đây là loài cây có triển vọng về sinh trưởng nhanh, trong đó biến chủng P. caribaea var hondurensis được đánh giá là biến chủng có sinh trưởng nhanh hơn hai biến chủng còn lại, trong PCH có xuất xứ Poptun, Alamicamba, Guanaja và Cardwell là những xuất xứ có triển vọng nhất và phù hợp với một số vùng trồng của nước ta (Phí Quang Điện, 1989).[4]
Đánh giá những kết quả khảo nghiệm được xây dựng gần đây (Lê Đình Khả, 1996, 1999),[8][9] cũng cho thấy Pinus caribaea var hondurensis là một trong những biến chủng triển vọng hơn hai biến chủng còn lại. Những xuất xứ triển vọng của biến chủng này là Poptun, Cardwel, Guanaja và Alamicamba và một số xuất xứ Abaco của PCB. Trên những dạng lập địa đất đai tương đối tốt, PCC có sinh trưởng chậm hơn PCH và PCB, nhưng PCC có sinh trưởng khá hơn trên đất nghèo xấu
Tổng hợp các kết quả nghiên cứu nhiều năm về Thông caribê ở nước ta cho thấy PCH với các xuất xứ Poptun, Alamicamba, Guanaja và Cardwell cũng như xuất xứ Abaco của PCB là có triển vọng nhất trong các xuất xứ được đưa vào khảo nghiệm (Lê Đình Khả, Nguyễn Quang Tặng, 1981).
Phan Thanh Hương (2000) [6] tiến hành đánh giá sinh trưởng của các khảo nghiệm ở giai đoạn 10 đến 20 năm tuổi. Kết quả đánh giá ở giai đoạn này cho thấy PCH vẫn có sinh trưởng nhanh nhất trên hầu khắp các khảo nghiệm, PCB có sinh
trưởng tốt trên lập địa đất nghèo dinh dưỡng tầng đất mỏng ở Xuân Khanh và Cẩm Quỳ, Hà Tây. PCC có sinh trưởng kém nhất. PCB và PCC có dạng thân đẹp hơn so với PCH. Sai khác về sinh trưởng giữa các xuất xứ được ghi nhận trên một số lập địa ở vùng cao như Lang Hanh, Lâm Đồng và Pleiku, Gia Lai mà không thấy ở các địa điểm khác ở vùng thấp. Các xuất xứ có sinh trưởng tốt ở giai đoạn dưới 10 tuổi như Poptun, Byfield và Cardwell của PCH vẫn duy trì khả năng sinh trưởng tốt ở giai đoạn sau 10 tuổi.
Nguồn hạt đã được cải thiện của Thông caribê được nhập từ Queensland mà có trong các khảo nghiệm này có biểu hiện sinh trưởng tương đương hay tốt hơn các nguồn hạt tự nhiên của PCH đã được khảo nghiệm. Số lô hạt của Queensland đã được khảo nghiệm có thể được lấy từ vườn giống thế hệ 1, bao gồm phần lớn các cây đã được chọn lọc của xuất xứ Mountain Pine Ridge (MPR) từ Belize. Trong chu kỳ đầu tiên của chương trình cải thiện giống ở Queensland hầu hết tập trung vào việc cải thiện hình dáng thân của Thông caribe, và đạt được mức tăng thu di truyền tương đối nhỏ về sinh trưởng. Tuy nhiên, rõ ràng rằng nguồn vật liệu được chọn từ Queensland có thể và đã thể hiện khả năng sinh trưởng tốt khi được trồng ở hầu hết các loại lập địa ở Việt Nam.
Khả năng sinh trưởng chung của 3 biến chủng ở các khảo nghiệm này là hoàn toàn phù hợp với những kết quả đã được báo cáo cho các khảo nghiệm xuất xứ quốc tế, nơi mà PCH luôn thể hiện khả năng sinh trưởng nhanh hơn nhiều trên dải lập địa rộng so với hoặc PCB hoặc PCC, song lại có độ thẳng thân và khả năng chịu gió nhìn chung lại kém hơn (Birks and Barnes 1990) [19]. Tuy nhiên, với lượng khá nhỏ biến dị xuất xứ của PCH được tìm thấy trong loạt khảo nghiệm này và các khảo nghiệm trước tương phản với những nghiên cứu trước đây (chẳng hạn như của Birks and Barnes 1990, Dvorak et al. 1993, Dvorak et al. 2000, Hodge and Dvorak 2001), các sai khác lớn đã quan sát được giữa các xuất xứ của PCH. Các biến dị xuất xứ hạn chế quan sát được ở các khảo nghiệm ở Việt Nam, có thể là kết quả của một thực tế là các khảo nghiệm này nhìn chung chi có những xuất xứ sinh trưởng nhanh – ví dụ như Birks and Barnes (1990) liệt kê 3 xuất xứ Guanaja, Alamicamba và Queensland như là 3 trong số 5 xuất xứ đứng đầu; báo cáo của Crockford và cs.
(1990) Queensland và Guanaja, Mountain Pine Ridge và Alamicamba như là 4 trong 5 xuất xứ đứng đầu; Dvorak và cs. (2000, p. 28) liệt kê Limón, Queensland, Guanaja, Poptún và Alamicamba nằm trong số những xuất xứ sinh trưởng nhanh nhất. Ngược lại các xuất xứ mà những báo cáo trước đây coi như là tiềm năng sinh trưởng rất kém trên các khảo nghiệm quốc tế (Los Limones, Dvorak và cs. 2000) đã không có mặt trong các khảo nghiệm xuất xứ ở Việt Nam.
Giai đoạn 1996 đến nay
Từ năm 2001, trong khuôn khổ dự án 661, Trung tâm nghiên cứu giống cây rừng đã xây dựng một số khảo nghiệm các biện pháp kỹ thuật lâm sinh sử dụng hạt giống biến chủng PCB, PCH từ Đại Lải và Queensland. Kết quả đánh giá tại Hà Tây chỉ ra sự tương tác có ý nghĩa giữa các công thức bón phân và các biến chủng tham gia trong khảo nghiệm, PCB đã đạt tỷ lệ sinh trưởng cao nhất, và tỷ lệ sinh trưởng trung bình cao nhất ở tất cả các công thức bón phân. Hơn nữa, PCB sinh trưởng đạt tối đa ở mức phân bón thấp hơn (150g P2O5/cây) so với PCH (450g P2O5/cây như PCH ở Đại Lải và 200g P2O5/cây + 200g NPK/cây cho PCH của Queensland). Như vậy là PCB có khả năng đạt được tỷ lệ sinh trưởng cao hơn PCH ở miền Bắc Việt Nam với đầu vào phân bón ít hơn (Dieter et al., 2006).
Cũng trong năm 2001, hai khảo nghiệm khác cũng đã được xây dựng ở Lang Hanh, Lâm Đồng. Khảo nghiệm đầu tiên so sánh PCH, PCC và giống lai F2 giữa PEE và PCH. Khảo nghiệm thứ 2 so sánh khả năng sinh trưởng của PCC và PCH dưới 3 chế độ phân bón khác nhau. Khi cùng đánh giá, hai khảo nghiệm này đều thể hiện khả năng sinh trưởng vượt trội của PCH so với PCC trên các điểm khảo nghiệm ở Tây Nguyên - ở giai đoạn 5 tuổi PCC thể hiện khả năng sinh trưởng rất kém so với PCH.
1.2.2 Nghiên cứu về trồng rừng thâm canh
Trồng rừng thâm canh và thâm canh rừng trồng đã được các nhà khoa học trong nước quan tâm từ những năm 90 của thế kỷ trước, hiện nay cũng đã đạt được những thành tựu nhất định. Đặc biệt, là một số công trình nghiên cứu gần đây tại một số vùng trọng điểm trên các lập địa khác nhau, cùng một giống đã được cải thiện và kỹ thuật trồng giống nhau, nhưng sinh trưởng và năng suất gõ ở mỗi địa điểm đều khác nhau. Nghiên cứu mở rộng rừng trồng Thông caribê trên một số
dạng lập địa vùng Đông Bắc, năm 2000-2004, (Nguyễn Ngọc Đích và Lương Thế Dũng, 2004) [1] đã xây dựng 25 ha mô hình ở Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Bắc Giang và Vĩnh Phúc. Kết quả đánh giá rừng trồng có triển vọng, ở giai đoạn 2 tuổi rừng không có sự sai khác rõ về sinh trưởng ở các địa điểm trồng. Thông caribê xuất xứ hondurensis giống ở Đại Lải – Vĩnh Phúc tỏ ra phù hợp để gây trồng rừng ở vùng Tây Bắc kể cả ở độ cao 800m lên đến 1.300m.
Trong báo cáo tổng kết khoa học và kỹ thuật đề tài Nghiên cứu các giải pháp khoa học công nghệ để phát triển gỗ nguyên liệu cho xuất khẩu (2006) do Tiến sĩ Nguyễn Huy Sơn làm chủ nhiệm đề tài đã có những tổng kết bước đầu về sinh trưởng của Thông caribê với phương thức trồng thâm canh và mật độ trồng là 1.330 cây/ha cho sinh trưởng bình quân đạt 4,7 cm về đường kính và 2,3m về chiều cao sau 2,5 năm tuổi (Ngyễn Huy Sơn, 2006) [12]. Kết quả đề tài nghiên cứu cấp Bộ “Nghiên cứu hệ thống biện pháp kỹ thuật trồng rừng thâm canh keo, bạch đàn, Thông
caribê cung cấp gỗ lớn” chỉ ra mật độ trồng phù hợp là 1.100 cây/ha và với phương thức trồng thâm canh Thông caribê ở tuổi 4 có thể đạt trên 17 m3/ha/năm, và Thông caribê có thể mở rộng vùng trồng trong điều kiện khí hậu với nhiệt độ thấp nhất tuyệt đối từ 6-12oC (Đặng Văn Thuyết – 2010) [14].
Ảnh hưởng của điều kiện lập địa đến khả năng sinh trưởng của rừng trồng Nghiên cứu điều kiện lập địa tức là nghiên cứu mối quan hệ giữa khả năng sinh
trưởng của thực vật rừng với các yếu tố của môi trường thông qua khí hậu, địa hình, đất đai. Xác định lập địa nghĩa là tìm hiểu các yếu tố ngoại cảnh ảnh hưởng và quyết định tới sự hình thành các kiểu quần thể thực v ật khác nhau và năng suất sinh trưởng của chúng. Nghiên cứu xác định điều kiện gây trồng cây Thông caribê cung cấp gỗ lớn của Đặng Văn Thuyết, Lương Thế Dũng và Nguyễn Thanh Sơn (2009)
[13] cho thấy cây Thông caribê có thể gây trồng ở cả 6 tỉnh vùng Đông Bắc Bộ, tuy nhiên diện tích có điều kiện thích hợp để trồng rừng cung cấp gỗ lớn phân bố thành các dải, chủ yếu tập trung ở Lạng Sơn, Bắc Giang, Cao Bằng và Thái nguyên .
Về kỹ thuật trồng rừng ở Việt Nam cũng có nhiều thành tựu và tiến bộ trong nghiên cứu và thực tiễn, đặc biệt là các thành tựu trong kỹ thuật trồng rừng thâm canh với suất đầu tư cao để nâng cao năng suất và chất lượng rừng trồng. Tuy nhiên
các nghiên cứu chủ yếu được triển khai ở vùng thấp (<600 m), nhiều đề tài nghiên cứu về các biện pháp kỹ thuật thâm canh rừng trồng đã được tiến hành trong những năm gần đây, có thể kể các công trình điển hình như: Nguyễn Xuân Quát (1990)
[10] nghiên cứu xây dựng các biện pháp kỹ thuật trồng rừng cung cấp gỗ lạng ở Tây Nguyên. Đỗ Đình Sâm và cộng sự (2001) [11] ở Bình Dương, Gia Lai, Quảng Trị. Nguyễn Huy Sơn (2006) [12] đã nghiên cứu các biện pháp khoa học công nghệ để phát triển gỗ nguyên liệu cho xuất khẩu, chưa đi vào gỗ lớn và áp dụng các biện pháp thâm canh tổng hợp.
Bón phân cho cây rừng là một trong những biện pháp kỹ thuật thâm canh quan trọng nhằm làm ổn định, tăng năng suất rừng trồng. Trên thực tế cho thấy, bón phân nhằm bổ sung dinh dưỡng cho đất và hỗ trợ cho cây trồng sinh trưởng nhanh chóng trong giai đoạn đầu, làm tăng sức đề kháng của cây đối với các điều kiện bất lợi của môi trường. Ở các nước có nền Lâm nghiệp phát triển cao đều áp dụng bón phân cho rừng trồng và đạt được chỉ số sử dụng phân bón cao, từ 40 - 50% đối với phân đạm và khoảng 30% đối với phân lân (Ngô Đình Quế, 2004) [29].
Tại việt nam vấn đề này đã được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu ở các mức độ khác nhau, điển hình có công trình nghiên cứu bón phân cho Thông caribeae ở Đông Bắc Bộ. Thông caribê được Nguyễn Đình Hải nghiên cứu gây trồng ở Đại Lải bước đầu có triển vọng. Nguyễn Đình Hải đã bố trí 8 công thức thí nghiệm bón phân lót khác nhau cho 3 giống thông Pinus caribaea var bahamensis 1167, var hondurensis 1160 và var hondurensis - giống ở Đại Lải trên đất nghèo xấu ở Cẩm Quỳ - Ba Vì - Hà Nội. Kết quả thí nghiệm cho thấy rừng trồng của cả 3 giống thống trên đều sinh trưởng tốt ở công thức bón phân Supe lân (P205) với liều lượng là 200gam/cây khi rừng đạt 14 đến 36 tháng tuổi [5].
Như vậy, bón phân cho rừng trồng là một trong những biện pháp kỹ thuật thâm canh đã được nghiên cứu nhiều nhất. Hầu hết các tác giả đều kết luận rằng phân bón có ảnh hưởng khá rõ đến sinh trưởng của các loài cây trồng, đặc biệt là đối với các loài cây trồng rừng nguyên liệu. Tuy nhiên, để tăng cường hiệu lực của phâ n b ón thì điều quan trọng là phải bón đúng loại phân, đúng thời vụ và đúng liều lượng cùng với kỹ thuật hợp lý.