Các Hạn Chế Trong Mở Rộng Tín Dụng Để Phát Triển Bền Vững Cây Công Nghiệp Dài Ngày Của Các Ngân Hàng Thương Mại Trên Địa Bàn Tỉnh Bình Dương.


- Mở rộng quy mô và đa dạng đối tượng cho vay trong lĩnh vực cây CNDN. Các số liệu thống kê cho thấy, mặc dù nợ quá hạn của nông dân thường dưới mức 5%, thấp hơn nhiều so với con số của các doanh nghiệp, các hợp tác xã, các cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp. Thế nhưng các ngân hàng thương mại thường không nhiệt tình lắm trong việc cho các nông hộ trồng cây CNDN. Một trong các lý do là các nông hộ thiếu những dự án nông nghiệp lớn, mà chủ yếu là vay tiền để đầu tư sản xuất manh mún. Vì vậy các ngân hàng cần phải thay đổi quan điểm “chỉ phục vụ khách hàng lớn”. Nhu cầu vay vốn của nông dân dù lớn dù nhỏ cũng nên được đáp ứng như nhau mới đảm bảo tính công bằng trong công tác tín dụng nông thôn nhằm góp phần tăng thu nhập và giảm đói nghèo ở nông thôn. Hiệu quả của đồng vốn có thể được giải quyết bằng cách hoàn thiện việc thẩm định dự án, đánh giá mức rủi ro của người đi vay.

- Gia tăng số lượng khách hàng vay vốn thông qua đa dạng hóa các hình thức cấp tín dụng, đa dạng hóa các hình thức đảm bảo nợ vay.

- Mở rộng quy mô tín dụng đối với cây CNDN thông qua thay đổi cơ cấu dư nợ theo hướng tăng tỷ trọng dư nợ tín dụng đối với cây CNDN so với dư nợ ngăn hạn.

- Phân bổ nguồn vốn đầu tư tín dụng cây CNDN một cách hợp lý về thời hạn, cơ cấu vốn đầu tư cũng như hạn mức vốn vay. Tập trung vốn tín dụng cho một số giai đoạn nhất định trong chu kỳ sản xuất kinh doanh cây CNDN.

- Mở rộng quy mô tín dụng đối với cây CNDN thông qua cải tiến phương thức cho vay vốn của ngân hàng theo hướng giảm bớt các thủ tục phiền hà, bảo đảm hộ dân tiếp cận được nguồn vốn tín dụng dễ dàng, thuận tiện, để hạn chế việc phải đi vay ngoài với lãi suất cao.

- Bên cạnh đó, các NHTM cần phải gắn việc mở rộng quy mô tín dụng với đảm bảo chất lượng tín dụng.

- Các NHTM cần có những biện pháp dự phòng trong những trường hợp đặc biệt như khắc phục hậu quả thiên tai, hay tiến hành các chương trình ưu tiên phục vụ vùng sâu, vùng xa, miền núi, hải đảo, vùng dân tộc thiểu số. Tuy nhiên, biện pháp can thiệp không nhất thiết là phải cung cấp tín dụng với số lượng


nhiều và giá rẻ mà có dưới nhiều hình thức khác; ví dụ như cung cấp vốn, hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng nông nghiệp, thực hiện các chương trình thí điểm từ đó nhân rộng ra, đào tạo cán bộ chuyên trách, hỗ trợ hoạt động của các tổ chức cho vay lưu động ở vùng khó khăn…

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 156 trang tài liệu này.

3.1.3 Các hạn chế trong mở rộng tín dụng để phát triển bền vững cây công nghiệp dài ngày của các ngân hàng thương mại trên địa bàn tỉnh Bình Dương.

Các giải pháp được tác giả đề xuất dựa nguyên nhân của những hạn chế trong việc mở rộng tín dụng để phát triển bền vững cây CNDN tại tỉnh Bình Dương đã được phân tích trong chương 2. Các nhóm nguyên nhân cụ thể là:

Mở rộng tín dụng ngân hàng để phát triển bền vững cây công nghiệp dài ngày của các ngân hàng thương mại trên địa bàn tỉnh Bình Dương - 14

3.1.3.1 Hạn chế trong chính sách tín dụng của các ngân hàng thương mại cho cây công nghiệp dài ngày:

Quy định bắt buộc phải có tài sản đảm bảo, tỷ lệ món vay tối đa bằng 70% giá trị tài sản đảm bảo. Quy định tỷ lệ đóng góp của vốn chủ sở hữu bằng 30% tổng nguồn vốn của phương án sản xuất kinh doanh. Quy định thời hạn cấp tín dụng tối đa là 5 năm trong khi bản chất của đầu tư vào cây CNDN là mang tính dài hạn, vì phần lớn cây CNDN phải sau khoảng 5 đến 7 năm kể từ khi gieo trồng mới cho sản phẩm thu hoạch. Các ngân hàng chưa xây dựng được bộ tiêu chí cho vay riêng đối với cây CNDN, việc đánh giá suất đầu tư để cho vay chưa sát với thực tiễn. Việc tổ chức cho vay từ khâu trồng trọt, chăm sóc, thu hoạch, chế biến, bảo quản, tiêu thụ còn rời rạc, thiếu tính đồng bộ và liên kết giữa các khâu nên hiệu quả mở rộng quy mô tín dụng không cao.

3.1.3.2 Năng lực hoạt động của các ngân hàng thương mại

Năng lực hoạt động của các NHTM được cấu thành bởi nhiều nhân tố. Tuy nhiên, có 4 nhân tố cấu thành năng lực hoạt động được đánh giá ở mức thấp nhất là năng lực tài chính, năng lực quản trị điều hành, năng lực chất lượng dịch vụ và năng lực cạnh tranh lãi suất. Cụ thể:

+ Năng lực tài chính giữa các ngân hàng không đều nhau và cho đến nay, một số ngân hàng vẫn duy trì tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu thấp hơn quy định, một số ngân hàng có tỷ lệ vốn chủ sở hữu/dư nợ cho vay khá thấp. Điều này hàm ý là


các ngân hàng này sử dụng đòn bẩy khá cao, gây ra rủi ro tiềm ẩn về mặt thanh khoản. Một trong những nhân tố ảnh hưởng lớn đến năng lực tài chính của các NHTM là sự mất cân đối kỳ hạn trong nguồn vốn huy động.

+ Năng lực quản trị điều hành của các NHTM còn hạn chế ở các mặt: năng lực hoạch định chiến lược, năng lực ra quyết định, năng lực kiểm soát hoạt động. Xét về lĩnh vực tín dụng nông nghiệp nói chung, tín dụng cây CNDN nói riêng, các ngân hàng vẫn chưa có một chiến lược đầu tư dài hạn, phần lớn các quyết định đầu tư mang tính đơn lẻ, thiếu chiều sâu và không có định hướng rõ ràng. Khả năng đánh giá về tiềm năng và triển vọng của cây CNDN tại địa bàn của một số ngân hàng chưa đầy đủ nên không mạnh dạn đầu tư. Ngoài ra, đối với những khoản tín dụng đã được phê duyệt, quá trình kiểm soát sử dụng vốn và những rủi ro phát sinh chưa thật sự chặt chẽ.

+ Năng lực chất lượng dịch vụ của các NHTM chưa đáp ứng được yêu cầu của khách hàng. Hiện vẫn còn tồn tại khoảng cách khá lớn giữa kỳ vọng của khách hàng với thực tế chất lượng dịch vụ mà ngân hàng cung cấp.

+ Lãi suất cấp tín dụng của các NHTM vẫn còn duy trì ở mức khá cao.

3.1.3.3 Hiệu quả sử dụng vốn của khách hàng chưa cao

Đất trồng cây CNDN ở một số vùng kém màu mỡ; thời tiết bất lợi; tình hình sâu bệnh phổ biến. Ngoài ra, đối với sản phẩm cây CNDN, giá cả thị trường trên thế giới thường xuyên biến động khó lường, có những thời điểm giá hồ tiêu và cà phê xuống quá thấp làm ảnh hưởng đến sức tiêu thụ và doanh thu của những người trồng trọt và sản xuất. Bên cạnh đó, việc đầu tư trong từng công đoạn của chuỗi sản xuất bao gồm: cây giống - trồng trọt – chăm sóc – khai thác, chế biến – bảo quản - tiêu thụ vẫn còn phát triển mang tính tự phát, thiếu gắn kết chặt chẽ với nhau, gây rủi ro bất ổn về giá cả cho nông hộ và rủi ro nguyên liệu cho doanh nghiệp chế biến. Tinh thần hợp tác giữa các doanh nghiệp thu mua chế biến và nông hộ trồng trọt còn hạn chế. Khả năng lập dự án và tính toán tính khả thi của dư án còn hạn chế, đặc biệt đối với khách hàng là nông hộ. Một số chủ hộ thiếu kinh nghiệm sản xuất, không áp dụng đúng quy trình kỹ thuật trồng


trọt và chăm sóc cây nên năng suất và chất lượng sản phẩm không cao. Một số vườn cây đã già cỗi nhưng thiếu sự đầu tư tái tạo lại vòng đời của cây.

3.1.3.4 Hạn chế trong nhận thức về vai trò của nguồn vốn tín dụng ngân hàng đối với hoạt động sản xuất cây công nghiệp dài ngày của khách hàng

Một bộ phận khách hàng chưa thấy hết được vai trò và ý nghĩa của vốn ngân hàng trong việc bù đắp nguồn vốn thiếu hụt cho trồng trọt, chăm sóc và chế biến cây CNDN, hạn chế về trình độ văn hóa, thiếu thông tin về các sản phẩm tín dụng và tiện ích của sản phẩm tín dụng, đặc biệt đối với hộ nông nghiệp vùng sâu vùng xa, hộ dân tộc, nên ảnh hưởng đến nhận thức về nguồn vốn cho sản xuất, trồng trọt ở những vùng khá xa trung tâm, giao thông đi lại khó khăn, môi trường sống ít nhiều biệt lập với bên ngoài.

3.1.3.5 Hạn chế khác

Việc mở rộng tín dụng ngân hàng cho phát triển cây CNDN tại Bình Dương còn gặp phải một số hạn chế như: điều kiện đáp ứng yêu cầu vay vốn của ngân hàng còn nhiều vướng mắc trong các khâu chứng minh về nguồn thu nhập cũng như tài sản bảo đảm, lịch sử vay nợ của khách hàng đã từng có nợ quá hạn do không quan tâm đến việc ngân hàng định kỳ trả nợ.

3.2 GIẢI PHÁP MỞ RỘNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỂ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG CÂY CÔNG NGHIỆP DÀI NGÀY CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BÌNH DƯƠNG

3.2.1 Nhóm giải pháp liên quan đến chính sách tín dụng của ngân hàng thương mại.

Để góp phần phát triển bền vững cây CNDN tại Bình Dương, các chính sách tín dụng cần hướng đến phương châm vừa ưu tiên đầu tư vốn cho phát triển, vừa đảm bảo tính chặt chẽ và hiệu quả của tín dụng cây CNDN. Theo đó, các chính sách tín dụng cây CNDN cần có sự bổ sung, hoàn thiện các điểm sau:

Đa dạng hóa sản phẩm tín dụng cây CNDN. Hiện nay, sản phẩm tín dụng cho cây CNDN chủ yếu là cho vay theo món, cho vay trả góp và cho vay theo hạn mức tín dụng. Đặc điểm của các sản phẩm này là giá trị nhỏ, phân tán nên


chi phí đơn vị lớn. Trong thời gian tới, bên cạnh các sản phẩm đang triển khai có hiệu quả, các NHTM cần bám sát quy hoạch của tỉnh, trên cơ sở đó thẩm định, đánh giá tính khả thi của các dự án và đẩy mạnh hơn nữa hình thức cho vay theo dự án. Cần mạnh dạn dành nguồn vốn ưu tiên nhất định cho phát triển các dự án trồng trọt và chế biến có quy mô lớn, áp dụng công nghệ tiên tiến. Ngoài hình thức cho vay 100%, ngân hàng có thể áp dụng mô hình cho vay một phần và bảo lãnh một phần; ngân hàng bảo lãnh 100% vốn dự án xin vay. Thực hiện điều này sẽ góp phần thúc đẩy sản xuất hàng hóa quy mô lớn, hiện đại, tận dụng được lợi ích của tính hiệu quả kinh tế theo quy mô.

Trong hoạt động cấp tín dụng, các ngân hàng cần đến chú trọng đến việc tạo ra mối liên kết chặt chẽ trong các công đoạn của chuỗi trồng trọt – chế biến – tiêu thụ khép kín, thông qua sự phối hợp thực hiện giữa các bên liên quan như: hộ nông nghiệp, nhà cung ứng vật liệu, đại lý thu mua, doanh nghiệp chế biến, ngân hàng. Thực hiện điều này sẽ góp phần nâng cao hiệu quả phát triển cây CNDN cũng như hiệu quả tín dụng ngân hàng, do tính ảnh hưởng lẫn nhau của từng công đoạn trong chuỗi sản xuất. Do đó, các ngân hàng không nên chỉ chú trọng đầu tư vốn tín dụng cho các công đoạn thu hoạch, chế biến, xuất khẩu như hiện nay, là những công đoạn thu hồi vốn nhanh, rủi ro thấp, mà cần có chiến lược dài hạn hơn thông qua đầu tư cho các công đoạn trồng trọt, chăm sóc vườn non; mở rộng đối tượng cho vay như chi phí nghiên cứu và đổi mới công nghệ, chi phí quảng cáo và giới thiệu sản phẩm... Ưu tiên cấp tín dụng cho những chủ thể có hợp đồng liên kết sản xuất, như hợp đồng bao tiêu sản phẩm giữa nông hộ trồng trọt và doanh nghiệp chế biến, giữa đại lý thu mua và người trồng trọt, giữa người trồng trọt và cơ sở cung ứng giống, phân bón.

Đối với cây cao su và cà phê, có thể xây dựng phương thức người vay theo dự án là các công ty sản xuất, chế biến, xuất khẩu; các hộ nông nghiệp là vệ tinh trồng, chăm sóc cây và giao sản phẩm sơ chế cho công ty. Trong quá trình hộ nông nghiệp trồng, chăm sóc và sơ chế, công ty chế biến xuất khẩu, thông qua sự bảo lãnh của ngân hàng, sẽ ứng trước cho hộ nông nghiệp các chi phí để thực hiện sản xuất; tiền gốc và lãi vay sẽ được trừ lại khi doanh nghiệp thu mua sản


phẩm từ nông hộ. Nhằm đáp ứng nhu cầu về vốn trong lúc chưa thu hoạch, nhà cung cấp nguyên vật liệu và đại lý thu mua sản phẩm có thể ứng trước vốn cho hộ nông nghiệp trồng cây CNDN để các hộ nông nghiệp này có vốn đầu tư sản xuất. Để thực hiện tốt điều này, các NHTM nghiên cứu hình thức bảo lãnh thanh toán cho người trồng trọt, trong trường hợp người trồng trọt không thanh toán cho người cung ứng vật liệu hoặc đại lý thu mua thì các NHTM sẽ trả thay cho khách hàng. Hình thức này sẽ giúp cho người trồng trọt vẫn có vốn trong khi ngân hàng chỉ là người trung gian bảo lãnh giữa người vay và nhà cung ứng nguyên liệu, nhà tiêu thụ hàng hóa, không cần giải ngân vốn vay nhưng người trồng trọt vẫn có vốn đầu tư cho sản xuất. Ngoài ra, các ngân hàng cũng có thể cho vay trực tiếp nông hộ nhưng có sự liên kết với các doanh nghiệp chế biến, đại lý thu mua để thu nợ ngay tại điểm thu mua và đồng thời kết hợp cả nghiệp vụ tín dụng lẫn nghiệp vụ huy động vốn tại cùng thời điểm.

Đối với chính sách đảm bảo tiền vay, không nhất thiết yêu cầu tất cả các khoản vay đều phải có tài sản thế chấp. Nên xem xét cho vay từ những tài sản hình thành trong tương lai, cho vay không cần tài sản bảo đảm theo tổ vay vốn, các hiệp hội, hoặc căn cứ vào xếp hạng tín nhiệm nội bộ, cho vay không có tài sản đảm bảo đối với những hộ gia đình trồng cây CNDN có mức xếp hạng tín nhiệm cao, có hợp đồng tiêu thụ sản phẩm từ các doanh nghiệp uy tín ở trong vùng. Đối với món vay có tài sản đảm bảo, cần định giá tài sản đảm bảo theo giá thị trường, đặc biệt là quyền sử dụng đất nông nghiệp thay vì định giá theo giá công bố của Ủy ban Nhân dân tỉnh như hiện nay.

Đối với tỷ lệ đóng góp của vốn chủ sở hữu, tùy theo từng loại hình sản phẩm mà có sự quy định phù hợp. Đối với hợp đồng vay vốn cho mục đích chăm sóc cây đã cho sản phẩm, có hợp đồng bao tiêu sản phẩm thì không cần vốn chủ sở hữu đối ứng mà có thể nâng hạn mức cho vay bằng nhu cầu vốn. Chính sách này cũng có thể áp dụng cho các trường hợp khách hàng là đại lý thu mua có uy tín, đã có tài sản thế chấp có giá trị lớn.

Đối với thời hạn cấp tín dụng, không chỉ giới hạn thời hạn cấp tín dụng là 5 năm mà tùy theo đối tượng, mục đích và xét từng trường hợp cụ thể, có thể kéo


dài thời hạn cấp tín dụng cho một số loại sản phẩm như đầu tư mở rộng diện tích trồng trọt, tái tạo lại vườn cây già cỗi, đầu tư nhà máy sản xuất chế biến.

Ưu đãi lãi suất vay vốn: áp dụng cho những khách hàng vay vốn để đầu tư, chăm sóc cây CNDN mà thuộc đối tượng nằm trong vùng quy hoạch phát triển của tỉnh; các khách hàng có hợp đồng bao tiêu và chấp hành nghiêm túc về cung cấp sản phẩm cho doanh nghiệp thu mua, chế biến; các khách hàng thực hiện nghiêm túc các quy trình kỹ thuật trồng trọt theo tiêu chuẩn thực hành nông nghiệp tốt (GAP).

Thủ tục vay vốn: đối với các hộ gia đình, các doanh nghiệp, các trang trại sản xuất nằm trong vùng quy hoạch phát triển cây CNDN của tỉnh, thì ngân hàng có thể xây dưng quy trình thủ tục vay vốn đơn giản hơn các đối tượng khác. Chẳng hạn, khi khách hàng có giấy chứng nhận trồng và chăm sóc cao su theo đúng tiêu chuẩn của vùng dự án, ngân hàng có thể áp dụng mẫu hồ sơ riêng cho vay của vùng dư án đó, mà không nhất thiết yêu cầu khách hàng phải lập phương án vay vốn, chứng minh nguồn thu nhập…và có thể giải quyết cho vay tối đa trong 3 ngày đối với cho vay ngắn hạn và 5 ngày đối với cho vay trung dài hạn. Ngoài phương thức cho vay như thời gian qua, các NHTM sớm nghiên cứu phương thức cho vay lưu gốc đối với cây CNDN, nhằm giảm bớt chi phí đi lại, thủ tục hồ sơ vay vốn cho người vay, cũng như giảm khối lượng công việc cho cán bộ tín dụng.

3.2.2 Nhóm giải pháp nâng cao năng lực hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại.

Đa dạng hóa phương thức huy động vốn

Vốn được xem là yếu tố quyết định để mở rộng tín dụng, đặc biệt đối với tín dụng cây CNDN thì vốn trung dài hạn là hết sức cần thiết. Trong những năm gần đây, do biến động của thị trường tiền tệ nên việc huy động vốn trung dài hạn gặp không ít khó khăn. Để đảm bảo đủ vốn cho nhu cầu trong thời gian tới, các ngân hàng trên địa bàn cần thực hiện các giải pháp sau:

- Đối với tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn từ dân cư:


Nguồn vốn huy động từ dân cư được xem là nguồn vốn bền vững, nếu có giải pháp hữu hiệu thì khả năng huy động nguồn vốn trong dân cư là rất lớn. Ngoài những sản phẩm tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm thông thường, các ngân hàng nên mở rộng hình thức tiết kiệm dự thưởng, tiết kiệm bậc thang, tiết kiệm gửi góp, phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu ngân hàng. Tâm lý người dân ở nông thôn hiện nay vẫn thường thích tích lũy tài sản dưới dạng vàng và ngoại tệ do sợ đồng tiền mất giá, ngoài ra còn một bộ phận người dân vẫn ngại đến ngân hàng gửi tiền với số tiền nhỏ. Do đó, để khai thác tối đa nguồn vốn nhàn rỗi tại địa bàn, các ngân hàng cần tăng cường triển khai các sản phẩm huy động vốn như tiết kiệm gửi góp tự động, tiết kiệm gửi rút linh hoạt… Đồng thời, cần nắm bắt kịp thời diễn biến lãi suất trên thị trường để áp dụng lãi suất huy động phù hợp, áp dụng lãi suất linh hoạt, cung cấp các sản phẩm trọn gói, tăng cường công tác tiếp thị, chăm sóc khách hàng, phối hợp với chính quyền địa phương tuyên truyền lợi ích từ việc gửi tiết kiệm và những rủi ro khi cất trữ tài sản tại nhà để người dân được biết. Thực hiện chính sách ưu đãi về lãi suất tín dụng đối với những hộ trồng cây CNDN có gửi tiết kiệm và mở tài khoản tại ngân hàng. Triển khai dịch vụ thu hộ tiền tại nhà cho khách hàng để đảm bảo an toàn và gia tăng tiện ích cho khách hàng gửi tiền.

Thực hiện chính sách giao khoán đối với cán bộ ngân hàng trong công tác huy động vốn, từng bước chuyển từ hoạt động đơn năng sang hoạt động đa năng nhằm tận dụng lợi thế mối quan hệ sẵn có, tạo điều kiện để cán bộ ngân hàng có thể bán được nhiều sản phẩm ngân hàng cho khách hàng.

- Đối với tiền gửi thanh toán từ khu vực dân cư, đơn vị kinh tế và đơn vị hành chính:

Thông thường nguồn vốn từ đơn vị kinh tế và hành chính là vốn thanh toán, hoặc tiền gửi có kỳ hạn ngắn. Tuy nhiên, nếu nguồn vốn này được duy trì thường xuyên thì không kém phần quan trọng, có thể dành một tỷ lệ nhất định để cho vay trung dài hạn. Nguồn vốn này có lãi suất thấp nên tạo điều kiện để các ngân hàng cân đối được lãi suất đầu ra thấp.


Đẩy mạnh việc chi trả lương tự động qua thẻ ở tất cả các đơn vị hưởng lương ngân sách và các doanh nghiệp trên địa bàn các huyện, thị xã, thị trấn trong tỉnh theo đề án thanh toán không dùng tiền mặt của chính phủ.

Mở rộng dịch vụ thu hộ, chi hộ trong tầng lớp dân cư như tiền điện, nước, điện thoại… thật thuận lợi để người dân có thể đến với ngân hàng. Trước tiên cần triển khai cho các đối tượng nhận lương qua tài khoản và những khách hàng có tài khoản tiền gửi không kỳ hạn tại ngân hàng, sau đó triển khai đến hộ nông dân.

Gắn liền việc cung ứng tín dụng với việc mở tài khoản cá nhân ở khu vực nông thôn. Xây dựng chính sách khách hàng để từ đó thường xuyên có chương trình chăm sóc, thông báo cho khách hàng biết về số dư tiền gửi, tiền lãi khách hàng nhận được vào mỗi kỳ bằng các công nghệ ngân hàng điện tử như nhắn tin tự động qua điện thoại SMS, Internet Banking. Đẩy mạnh phát triển các dịch vụ ngân hàng điện tử để phục vụ khách hàng như lắp đặt máy POS, Internetbanking, Mobilebanking…

Thường xuyên tuyên truyền thuyết phục, vận động để người dân tạo thói quen giao dịch gửi và chuyển tiền qua ngân hàng bằng các phương thức thanh toán không dùng tiền mặt. Tăng cường mở rộng dịch vụ thanh toán qua ngân hàng, dịch vụ chuyển tiền, mở rộng đối tượng sử dụng thẻ ATM.

Nâng cao năng lực quản trị điều hành

Để nâng cao năng lựcquản trị điều hành, các NHTM cần cải cách bộ máy quản lý điều hành; đổi mới tư duy và phương thức quản lý điều hành.

- Cải cách bộ máy quản lý điều hành theohướng NHTM hiện đại. Quá trình cơ cấu lại tổ chức của các NHTM cần theo hướng thực hiện quản lý các hoạt động kinh doanh ngân hàng theo nhóm khách hàng và loại hình dịch vụ của một ngân hàng đa năng, thay thế dần cho việc quản lý theo chức năng và nghiệp vụ như hiện nay, đồng thời nâng cao trình độ quản lý rủi ro, quản lý tài sản nợ - tài sản có, và kiểm soát nội bộ. Tiến hành áp dụng phân cấp quản lý theo mô hình khối nhằm nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng, đồng thời đáp ứng được các yêu cầu của thực tiễn. Mô hình này đang được áp dụng tại hầu hết các ngân hàng


lớn trên thế giới. Thông qua mô hình khối, hoạt động ngân hàng sẽ được tổ chức thành các khối cơ bản như khối ngân hàng bán lẻ; khối ngân hàng phục vụ doanh nghiệp, khối các định chế tài chính và khối quản lý vốn. Hỗ trợ cho các khối hoạt động ngân hàng là các phòng ban có nhiệm vụ đảm bảo cho các hoạt động ngân hàng được vận hành thông suốt.

- Đổi mới tư duy và phương thức quản lý điều hành: Xây dựng chuẩn hóa và văn bản hóa toàn bộ quy trình nghiệp vụ của các hoạt động chủ yếu của NHTM. Cần xây dựng được các qui chế quản lý và hoạt động phù hợp với chuẩn mực quốc tế như quản trị rủi ro, quản trị nguồn vốn, kiểm tra kiểm toán nội bộ, xây dựng quy trình tín dụng hiện đại và sổ tay tín dụng, xây dựng và hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu đánh giá mức độ chỉ số an toàn và hiệu quả kinh doanh ngân hàng, trong đó đặc biệt chú trọng những vấn đề sau:

+ Đổi mới cơ chế quản trị điều hành theo hướng tăng quyền tự chủ cho đơn vị cơ sở, khuyến khích tính năng động, sáng tạo của các chi nhánh cấp cơ sở nhưng phải thiết lập cơ chế quản trị rủi ro chặt chẽ.

+ Quản trị tín dụng: quản trị tín dụng nhằm mục đích hướng tới khách hàng, đáp ứng các nhu cầu của khách hàng với chất lượng cao nhưng vẫn đảm bảo một cách an toàn dựa trên những quy định và nguyên tắc về hoạt động tín dụng theo chuẩn mực ngân hàng quốc tế.

+ Quản trị rủi ro: Các ngân hàng cần thành lập bộ máy quản trị rủi ro trực thuộc hội đồng quản trị và xây dựng cơ chế quản trị rủi ro nhằm hạn chế rủi ro trong hoạt động ngân hàng: rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro lãi suất, rủi ro tỷ giá theo thông lệ quốc tế.

+ Quản trị nguồn vốn: Quản lý vốn theo mô hình quản lý tập trung trụ sở chính, quản lý hoạt động của các tài khoản mà ngân hàng mở tại nước ngoài cũng như chịu trách nhiệm trong việc đầu tư nguồn vốn. Đóng hoặc chuyển quyền quản lý các tài khoản đã mở tại ngân hàng nước ngoài ở các chi nhánh về quản lý tại trụ sở chính của các ngân hàng nhằm quản lý và khai thác tối đa hiệu quả nguồn vốn, giảm chi phí quản lý vốn.


Nâng cao chất lượng dịch vụ tín dụng

Để nâng cao chất lượng dịch vụ tín dụng cây CNDN, các ngân hàng cần chú trọng cải thiện các nhân tố: sự tin cậy, sử đảm bảo, sự đáp ứng.

- Nâng cao sự tin cậy: Các ngân hàng cần thực hiện đúng các cam kết đã đưa ra với khách hàng, đặc biệt trong vấn đề điều chỉnh lãi suất cho vay, giải ngân vốn đúng thời hạn thỏa thuận. Minh bạch hóa các thông tin về giao dịch tín dụng, bao gồm các thông tin số dư, số ngày tính lãi mỗi kỳ hạn, lãi suất áp dụng trong kỳ hạn đó và phương pháp tính lãi. Trước thời điểm đến hạn trả nợ định kỳ khoảng 5 ngày, thông qua dịch vụ Internetbanking hoặc SMS, ngân hàng thông báo cho khách hàng đầy đủ các nội dung nêu trên, nhân viên ngân hàng sẵn sàng giải thích rõ ràng những vấn đề khách hàng thắc mắc. Ngân hàng cần xây dựng một cơ chế nhằm giải quyết thỏa đáng các khiếu nại của khách hàng, bao gồm cơ chế tiếp nhận thông tin, xử lý các vấn đề phát sinh và thông tin lại khách hàng một cách kịp thời. Ngân hàng cũng cần thường xuyên phát phiếu thăm dò ý kiến của khách hàng về chất lượng dịch vụ của ngân hàng, qua đó nắm bắt được kịp thời những cảm nhận của khách hàng để có biện pháp điều chỉnh thích hợp.

- Nâng cao sự đáp ứng: Nhằm đáp ứng linh hoạt nhu cầu của khách hàng, các ngân hàng cần thiết kế các sản phẩm phù hợp với nhu cầu phát triển cây CNDN. Đối với sản phẩm cho vay từng lần, cần đa dạng hóa kỳ hạn cũng phương thức thanh toán lãi và gốc. Phần lớn kỳ hạn trả nợ hiện nay là theo tháng, trong khi thu nhập từ cây CNDN lại theo mùa vụ; do đó, ngoài sản phẩm có kỳ hạn theo tháng như hiện nay, ngân hàng cần bổ sung sản phẩm kỳ hạn theo quý. Phương thức thanh toán lãi và gốc của phần lớn các sản phẩm hiện nay là trả gốc đều, lãi trả theo dư nợ giảm dần. Điều này tạo ra số tiền phải trả mỗi kỳ hạn là khá lớn. Do vậy, để giảm gánh nặng trả nợ mỗi kỳ, ngân hàng nên đưa thêm sản phẩm với phương thức trả lãi đều mỗi kỳ hạn ngắn, trong khi tiền gốc có thể chia đều với kỳ hạn dài hơn. Nên thiết kế sản phẩm sao cho kỳ hạn trả nợ gốc rơi vào thời điểm thu hoạch sản phẩm cây CNDN. Đối với các món vay có giá trị nhỏ, tiền gốc có thể chỉ trả một lần vào thời điểm đáo hạn, trong khi lãi trả định kỳ. Ngoài việc thiết kế sản phẩm đa dạng và thích hợp, ngân hàng cần nghiên cứu để


rút ngắn hơn nữa thời gian xử lý hồ sơ, đơn giản hóa quy trình thủ tục cho vay, đáp ứng nhu cầu vốn nhanh chóng hơn. Hiện nay, thời gian bình quân xử lý một hồ sơ cho vay cá nhân, hộ gia đình là khoảng 5 -7 ngày, cho vay doanh nghiệp là 10 - 12 ngày. Cần tiếp tục rà soát những khâu nào còn chậm để tiến tới cắt giảm thời gian bình quân xử lý hồ sơ cho vay cá nhân còn 3 ngày, cho vay doanh nghiệp còn 7 ngày. Các ngân hàng nghiên cứu giảm bớt những thủ tục rườm rà không cần thiết như: bỏ xác nhận của Ủy ban Nhân dân phường, xã trên giấy đề nghị vay vốn, bỏ thủ tục công chứng mà chỉ cần đi đăng ký giao dịch bản đảm, xây dựng định mức kinh tế kỹ thuật và các dự án vay vốn mẫu theo hướng động nhằm rút ngắn thời gian lập dự án cho khách hàng.

- Nâng cao sự đảm bảo: Để đảm bảo cung cấp dịch vụ đúng cam kết, ngân hàng cần có nguồn lực tốt, trong đó nguồn nhân lực là nhân tố giữ vai trò then chốt.

Hoàn thiện công tác tuyển dụng, bố trí nhân lực phù hợp. Rà soát và đánh giá lại nguồn nhân lực một cách toàn diện từ cán bộ quản lý đến nhân viên nghiệp vụ, theo cơ cấu tuổi, trình độ và kinh nghiệm, trên cơ sở đó sắp xếp lại nhân sự, tinh giảm lao động dư dôi, lao động không đáp ứng công việc; đồng thời bổ sung lao động chuyên môn nghiệp vụ mới, lao động kỹ thuật, các chuyên viên giỏi; chuyển đổi cơ cấu lao động nghiệp vụ theo hướng giảm lao động gián tiếp, trẻ hóa đội ngũ nhân viên. Xác định đào tạo là một bộ phận quan trọng trong chiến lược phát triển ngân hàng, xây dựng kế hoạch đào tạo cán bộ ngay từ khi mới được tuyển dụng, chú trọng đào tạo cả chuyên môn lẫn đạo đức để xây dưng được đội ngũ cán bộ có phẩm chất tốt, tinh thông nghề nghiệp. Việc đào tạo nguồn nhân lực của ngân hàng phải kết hợp nhiểu hình thức, đặc biệt là đào tạo lại, bồi dưỡng nâng cao nguồn lực hiện có để đáp ứng yêu cầu mới. Chú trọng đào tạo các nghiệp vụ thẩm định tài sản, phân tích tài chính, luật pháp, kỹ năng giao tiếp khách hàng… Cán bộ yếu về nghiệp vụ nào thì đào tạo về nghiệp vụ đó, không đào tạo tràn lan, tránh lãng phí cho ngân hàng. Xây dựng cơ chế đòn bẩy tài chính để khuyến khích nhân viên lao động sáng tạo, nhiệt huyết với nghề. Có chính sách đãi ngộ hợp lý để thu hút nhân sự giỏi, thường xuyên tổ

Xem tất cả 156 trang.

Ngày đăng: 21/04/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí