(Nguồn: Vụ kế hoạch – Bộ NN&PTNT)
III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THU HÚT VÀ SỬ DỤNG VỐN ODA TRONG NGÀNH LÂM NGHIỆP VIỆT NAM
Với những chủ chương định hướng rõ ràng từ phía Chính phủ và các Bộ ngành, ngành Lâm nghiệp đã nhận được rất nhiều ưu tiên, ưu đãi và một hướng đi rõ ràng để phát triển. Nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập trong việc thu hút và sử dụng vốn ODA, một nguồn vốn rất tiềm năng và quan trọng, để có thế tiếp tục phát triển đi lên theo định hướng, ngành Lâm nghiệp cần quán triệt thực hiện mốt số giái pháp cơ bản sau:
1. Hoàn thiện và đồng bộ hóa hệ thống pháp lý, cơ chế chính sách ưu tiên phát triển Lâm nghiệp.
Trong thời gian tới, Nhà nước Việt Nam cần phải đồng bộ hoá khung pháp lý cho việc thực hiện ODA, nghiên cứu và tiến hành sửa đổi một số nghị định liên quan đến việc quản lí và sử dụng ODA, tạo sự hài hoà giữa thủ tục của phía các nhà tài trợ và phía Việt Nam. Đồng thời có những chính sách ưu đãi thích hợp, khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia quản lí bảo vệ rừng và kinh doanh nghề rừng. Sự thiếu đồng bộ, thiếu chặt chẽ trong nội dung của một số văn bản pháp lý liên quan đến quản lí và sử dụng nguồn vốn ODA là nguyên nhân chính gây trở ngại trong quá trình thực hiện các dự án và hiệu quả sử dụng của nguồn vốn này.
Qua thực tế triển khai, Chính phủ và các nhà tài trợ đều nhận thấy cần phải chỉnh sửa lại các văn bản pháp lý như:
Có thể bạn quan tâm!
- Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thu hút và sử dụng vốn ODA trong ngành lâm nghiệp ở Việt Nam - 8
- Định Hướng Thu Hút Và Sử Dụng Vốn Oda Của Việt Nam Giai Đoạn 2006-2010.
- Chương Trình Bảo Vệ Rừng, Bảo Tồn Đa Dạng Sinh Học Và Phát Triển Các Dịch Vụ Môi Trường
- Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thu hút và sử dụng vốn ODA trong ngành lâm nghiệp ở Việt Nam - 12
- Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thu hút và sử dụng vốn ODA trong ngành lâm nghiệp ở Việt Nam - 13
Xem toàn bộ 112 trang tài liệu này.
1.1. Về chính sách về quản lý rừng và đất lâm nghiệp
Sửa đổi và hoàn thiện chính sách giao, cho thuê rừng và đất lâm nghiệp nhằm tạo động lực để khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia bảo vệ, phát triển, kinh doanh lâm sản và đảm bảo lợi ích thỏa đáng cho chủ rừng.
Ưu tiên giao đất, giao và khoán rừng phòng hộ cho các công đồng, hợp tác xã, hộ gia đình để quản lý, bảo vệ và hưởng lợi lâu dài theo quy hoạch, kế hoạch đã được các cấp có thẩm quyền phê duyệt
Tiếp tục thử nghiệm và nhân rộng các mô hình quản lý rừng cộng đồng. Hoàn thiện quy chế quản lý rừng và hưởng lợi đa thành phần. Hoàn thiện và thực hiện cơ chế chính sách giao, cho thuê rừng sản xuất và rừng phòng hộ là rừng tự nhiên. Thử nghiệm và xây dựng cơ sở pháp lý để giao, cho thuê rừng đặc dụng cho các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, đặc biệt trong các hoạt động du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng;
Tăng cường phân cấp quản lý nhà nước về rừng cho chính quyền các cấp huyện và xã. Quy định rõ trách nhiệm và quyền hạn của chủ rừng, chính quyền các cấp, các cơ quan thừa hành pháp luật và lực lượng bảo vệ rừng của chủ rừng và thôn xã nếu để mất rừng, phá rừng ở địa phương;
Tăng cường phổ biến, giáo dục pháp luật để nâng cao nhận thức và trách nhiệm của các cấp, các ngành, mỗi chủ rừng, mỗi người dân và toàn xã hội trong việc bảo vệ và phát triển rừng, đi đôi với tăng cường quản lý nhà nước, thể chế và pháp luật.
1.2. Về Quy chế đấu thầu ban hành kèm theo Nghị định 88/2000/NĐ-CP và Nghị định 22 CP về tái định cư.
Đối với quy chế đấu thầu, cần quan tâm tới một số khía cạnh như phải có quy định cụ thể về trường hợp bỏ thầu quá thấp; trường hợp nào được tuyên bố trúng thầu, trường hợp nào không nhằm bảo đảm tiến độ và chất lượng thi công của dự án sau đấu thầu; nghiên cứu lập ra các cơ quan chuyên đấu thầu quốc tế, các cơ quan này sẽ gồm các chuyên gia giỏi và am hiểu về đấu thầu quốc tế nhằm tránh các sơ sót đáng tiếc xảy ra…
Đối với các quy định về đền bù giải toả, tái định cư và giải phóng mặt bằng vốn là vấn đề khá bức xúc hiện nay, gây nên tình trạng chậm trễ trong thực hiện các dự án cần được khắc phục trên một số phương diện như quy định rõ trách nhiệm của chính quyền
địa phương, ban quản lí dự án và nhà thầu trong vấn đề đền bù giải toả, giải phóng mặt bằng, tránh tình trạng đùn đẩy trách nhiệm lẫn nhau; cần mở cuộc vận động sâu rộng đến mọi người dân về ý thức trách nhiệm công dân đối với các dự án quốc gia…
1.3. Về chính sách đầu tư
Tạo lập cơ chế đầu tư xây dựng cơ bản đặc thù cho ngành lâm nghiệp và đổi mới phương thức đầu tư của Nhà nước cho ngành theo kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng, thay cho việc cấp vốn theo suất đầu tư hỗ trợ bình quân hiện nay;
Xây dựng môi trường đầu tư minh bạch và ổn định, bảo đảm quyền sở hữu công nghiệp rõ ràng, quyền sử dụng đất, sử dụng và sở hữu rừng lâu dài, cung cấp các thông tin chính xác về cơ hội đầu tư và tài nguyên rừng, đơn giản hoá các thủ tục thành lập doanh nghiệp. Có chính sách hướng đầu tư của Nhà nước từ đầu tư trực tiếp sang đầu tư gián tiếp (cơ sở hạ tầng, giống, khoa học công nghệ...), tạo thuận lợi cho doanh nghiệp tư nhân đầu tư sản xuất và chế biến lâm sản;
Công khai các quy hoạch phát triển lâm nghiệp, thử nghiệm và nhân rộng việc đấu thầu cho thuê rừng sản xuất, rừng đặc dụng và rừng phòng hộ phục vụ cho du lịch, nghỉ dưỡng. Nhà nước tăng cường xây dựng quy hoạch và hỗ trợ lập một số dự án vùng trồng rừng nguyên liệu công nghiệp tập trung để kêu gọi đầu tư trong và ngoài nước;
Đẩy mạnh công tác định giá rừng làm cơ sở cho các giao dịch về rừng. Xây dựng Quỹ Bảo vệ và phát triển rừng của trung ương và địa phương từ các nguồn vốn khác nhau (vốn ngân sách, vốn ODA, các phí dịch vụ môi trường, tín dụng các-bon, du lịch sinh thái, khoản thu xử lý các vi phạm Luật Bảo vệ và Phát triển rừng, các đóng góp khác) và có cơ chế quản lý, sử dụng hợp lý quỹ này.
Xúc tiến xây dựng và thực hiện cơ chế chính sách kinh tế bảo đảm thu lại các giá trị dịch vụ môi trường do ngành Lâm nghiệp làm ra và đang cung cấp cho xã hội như: phòng hộ tạo nguồn nước cho các công trình thuỷ điện, thuỷ lợi, phòng hộ ven biển,
bảo vệ môi trường đô thị, du lịch sinh thái, du lịch văn hoá, du lịch nghỉ dưỡng .v.v.,. Đối với các tổ chức, cá nhân được hưởng lợi từ dịch vụ môi trường của ngành lâm nghiệp phải có nghĩa vụ trả tiền, tạo nguồn tài chính để tái đầu tư cho ngành lâm nghiệp đủ cơ sở phát triển cân bằng bền vững. Như vậy, yêu cầu xây dựng một cơ chế chính sách lâm nghiệp trong thời thời kỳ mới là phải bảo đảm để ngành lâm nghiệp có thể “lấy rừng nuôi rừng”, vượt ra ngoài sự bao cấp của nhà nước.
Thí điểm xây dựng dự án trồng rừng cơ chế phát triển sạch (CDM) quy mô nhỏ để tạo thu nhập cho cộng đồng dân cư nghèo, doanh nghiệp nhỏ và quy mô lớn hơn cho các doanh nghiệp khác.
1.4. Một số cơ chế chính sách khác
Tiếp tục bổ sung, hoàn thiện và triển khai có hiệu quả một số cơ chế quản lí, quy chế cho vay lại, thuế đối với các dự án ODA, chính sách đền bù, giải phóng mặt bằng, chính sách đối với chuyên gia; hoàn thiện cơ chế thẩm định dự án, thẩm định giá, định mức chi tiêu, phí tư vấn đối với các cơ quan tư vấn trong và ngoài nước, quy chế kiểm tra, kiểm soát đối với các dự án ODA; ban hành quy chế trách nhiệm kèm theo chế độ thưởng, phạt đối với các đơn vị, cá nhân liên quan đến việc sử dụng ODA; nghiên cứu và ban hành quy chế thu hồi vốn trực tiếp và hoàn trả một phần vốn vay nước ngoài từ nguồn thu phí đối với một số công trình công cộng để nâng cao trách nhiệm quản lí sử dụng vốn và giảm một phấn gánh nặng nợ nước ngoài cho NSNN.
2. Nâng cao tính công khai và hài hỏa thủ tục giữa Chính phủ và các nhà tài trợ
2.1. Hiệu lực hóa những quy định của các nhà tài trợ
Cần phải có nhiều nỗ lực, nhiều việc phải làm để bảo đảm tất cả các đối tác Việt Nam liên quan đến các dự án ODA lâm nghiệp hiểu và thực hiện đúng các hướng dẫn và qui định của nhà tài trợ. Trong nhiều trường hợp, nhiều cán bộ phía Việt Nam không biết rằng những điều khoản nêu trong các hiệp định đã ký giữa nhà tài trợ và
Chính phủ Việt Nam mang tính pháp lý tối thường và trong trường hợp có những sự khác biệt giữa quy định của Việt Nam và hướng dẫn, quy định của nhà tài trợ thì hướng dẫn, qui định của nhà tài trợ phải được ưu tiên hơn. Do vậy, không chỉ các Ban quản lí dự án mà còn cả các cơ quan chủ quản thuộc các Bộ ngành đôi khi cũng ưu tiên các quy định và các quyết định mang tính chính trị nội bộ của phía Việt Nam mà không chú ý đến những điều khoản trong các hiệp định đã ký. Chính phủ cần đưa ra những biện pháp hữu hiệu về tăng cường năng lực đội ngũ cán bộ, quản lí và vận hành chương trình, dự án và của các cơ quan quản lí Nhà nước liên quan về những điều khoản của hiệp định đã ký giữa Chính phủ và nhà tài trợ cũng như các quy định, hướng dẫn của nhà tài trợ.
2.2. Hài hòa các thủ tục với nhà tài trợ
Một vấn đề khác là hài hoà các thủ tục với nhà tài trợ. Số lượng nhà tài trợ càng nhiều thì càng có các thủ tục và quy định khác nhau mà Chính phủ phải tuân theo để tiếp nhận và thực hiện các dự án đầu tư, các dự án hỗ trợ kỹ thuật bằng nguồn vốn ODA. Tất nhiên điều này đã được chấp nhận rộng rãi ở tất cả các quốc gia tiếp nhận tài trợ, nhưng cũng đặt những gánh nặng to lớn cho phía tiếp nhận viện trợ về nguồn nhân lực, tài chính và thời gian. Do đó, bên nhận tài trợ cần phải hài hoà các thủ tục càng nhiều càng tốt để giảm thiểu những khó khăn, gây chậm chễ trong quá trình chuẩn bị và thực hiện các dự án ODA. Việc từng bước trao đổi, thảo luận với cộng đồng các nhà tài trợ để có thể hài hoà các thủ tục sẽ tạo ra những tác động tích cực đối với việc thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA.
Quá trình này bao gồm các nội dung cơ bản được kiến nghị sau đây: i) Các nhà tài trợ tham gia nhóm hài hoà cần phải lên kế hoạch hoạt động phù hợp với Chính phủ (ví dụ như trong vấn đề chu trình dự án), tổ chức một số hoạt động chung với nhau để giảm chi phí giao dịch của Chính phủ (ví dụ như việc cùng xem xét chiến lược quốc gia), và hài hoà các thuật ngữ.; ii) Các nhà tài trợ tham gia cần thực hiện một số bước đi cụ thể hướng tới việc thực hiện các thủ tục của Chính phủ (ví dụ như trong lĩnh vực
kế toán v.v...), và sử dụng phương pháp "học thông qua thực hành" để tăng cường năng lực hệ thống cho Chính phủ (ví dụ thông qua việc tiến hành thiết kế và đánh giá dự án chung v.v...); và iii) Chính phủ cần làm rõ một số khía cạnh trong chu trình dự án cho phép hài hoà ở một số lĩnh vực (như xây dựng và áp dụng các định mức chi phí, các biểu mẫu chuẩn và các hướng dẫn thực hiện )
Bộ NNPTNN cũng cần có những văn bản pháp quy quy định chi tiết và cụ thể hơn nữa về thủ tục giữa từng nhà tài trợ cho các dự án khác nhau với đối tác thực hiện là phía Việt Nam, tránh tình trạng áp dụng và thực thi không đồng nhất như hiện nay.
3. Tiếp tục tinh giảm các quy trình thủ tục chuẩn bị và thực hiện đầu
tư
Quy trình ra quyết định đối với các dự án sử dụng vốn ODA vẫn còn dài dòng. Hiện tại, việc phê duyệt các bước chính đối với các dự án ODA thường ở cấp cao nhất- Thủ tướng Chính phủ. Quá trình ra quyết định vẫn còn tập trung và phải trải qua một quá trình lâu dài để đi đến sự nhất trí chung, tốn kém thời gian và làm chậm chễ quá trình chuẩn bị và thực hiện dự án. Không ít dự án từ khâu chuẩn bị, thiết kế dự án đến thời điểm phê duyệt và triển khai thực thi dự án quá dài và trong thời gian này điều kiện kinh tế-xã hội địa phương và một số chủ trương, chính sách của Nhà nước đã có nhiều thay đổi, nên phải điều chỉnh thiết kế dự án hoặc cơ cấu lại nội dung đầu tư. Do đó, việc đơn giản hoá quá trình ra quyết định đòi hỏi phải có nhiều nỗ lực hơn nữa, dựa trên sự phân cấp, tăng cường năng lực và nâng cao trách nhiệm quản lí đối với mọi cấp.
Hiện tại, Ban quản lí dự án không có đủ thẩm quyền và quyền lực để quản lí dự án một cách có hiệu quả. Họ phải tuân theo các quyết định của cấp trên trực tiếp là Bộ NNPTNT, tiếp đến là Bộ kế hoạch và đầu tư và các ban, bộ ngành khác liên quan, tốn nhiều thời gian chờ đợi, xem xét và phê chuẩn từ cấp Bộ đến cấp Chính phủ trong phần lớn các vấn đề, thậm chí cả những thay đổi nhỏ trong các hợp đồng. Cần nâng cao hơn nữa sự tham gia và trách nhiệm của các Vụ, Cục của các Bộ ngành Trung ương và các
Sở, Ban, Ngành địa phương trong việc điều hành và quản lí dự án. Việc phân cấp và trao quyền hơn nữa từ cấp Trung ương cho cấp thực hiện (Ban quản lí dự án) là cần thiết.
Đơn giản hoá quy trình và phân cấp là yêu cầu khách quan nhưng đồng thời đòi hỏi những nỗ lực to lớn của Chính phủ và các Bộ, ngành liên quan, nhằm tăng cường năng lực cho các cơ quan chủ quản, chủ dự án và Ban quản lí dự án.