Tích Cực Khai Thác Nguồn Vốn Ngoài Nsnn


vùng, miền đặt địa điểm và số lượng sinh viên chính quy quy đổi. Phân bổ NSNN cho các CSĐTDL phải theo các tiêu chí, cụ thể như sau:

- Phân bổ NSNN theo tiêu chí hệ số quy đổi sinh viên dài hạn: Ưu tiên phân bổ NSNN cho hệ đại học và giảm dần hệ số này với các hệ cao đẳng và trung cấp

NSNN phân bổ cho các CSĐTDL theo tiêu chí hệ số quy đổi sinh viên về sinh viên dài hạn chính quy quy đổi như sau:

Sinh viên hệ đại học dài hạn chính quy: hệ số 1 Sinh viên hệ cao đẳng dài hạn chính quy: hệ số 0,8 Học sinh hệ trung cấp chuyên nghiệp: hệ số 0,7

- Phân bổ NSNN theo tiêu chí hệ số hỗ trợ của NSNN: Hệ số hỗ trợ của NSNN theo khối ngành đào tạo và theo chất lượng đào tạo. Phân bổ NSNN theo tiêu chí chất lượng đào tạo của CSĐTDL được đánh giá căn cứ vào hệ số giảng viên/100 sinh viên dài hạn chính quy quy đổi và tỷ lệ % giảng viên có trình độ tiến sỹ trở lên trên tổng số giảng viên. Nếu CSĐTDL có chất lượng đào tạo trung bình thì có hệ số 1 và hệ số 1,2 – 1,5 – 2,0 cao hơn nếu CSĐTDL có chất lượng khá, tốt, xuất sắc.

- Phân bổ NSNN theo tiêu chí vùng, miền: Ưu tiên các CSĐTDL tại các vùng có điều kiện kinh tế khó khăn. Nếu CSĐTDL đặt ở các vùng Trung du, miền núi phía Bắc, vùng Tây Nguyên, vùng đồng bằng sông Cửu Long thì được hưởng hệ số 1,2, đặt ở các địa điểm khác thì hưởng hệ số 1.

Cấp phát NSNN cho các CSĐTDL công lập chuyển sang cơ chế đặt hàng đào tạo và dạy nghề, đấu thầu chỉ tiêu đào tạo và giao nhiệm vụ đào tạo, dạy nghề cho các cơ sở đào tạo, dạy nghề du lịch. Ưu tiên đối với những CSĐTDL đạt chuẩn kiểm định chất lượng, cơ sở đào tạo và dạy nghề đặc thù, cơ sở đào tạo và dạy nghề dân tộc nội trú, ngành, nghề đào tạo khó tuyển sinh,


đào tạo và dạy nghề cho người năng khiếu, người tàn tật, nghề công nghệ cao, nghề trọng điểm.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 251 trang tài liệu này.

b) Sử dụng NSNN cho phát triển NNLDL có hiệu quả

Sử dụng NSNN để đầu tư tập trung đồng bộ theo ngành, nghề để hình thành hệ thống mạng lưới cơ sở đào tạo, dạy nghề du lịch các cấp chất lượng cao. NSNN hỗ trợ đầu tư cho các CSĐTDL công lập ở các tỉnh khó khăn. Đối với các CSĐTDL khó thực hiện xã hội hoá, NSNN cần đầu tư, xây dựng định mức chi phí đào tạo, chi xây dựng chương trình khung, xây dựng chương trình và biên soạn giáo trình cho các ngành, chuyên ngành Du lịch phổ biến.

Huy động vốn đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực du lịch Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế - 21

NSNN tập trung cho các lĩnh vực nhằm mục đích tiêu chuẩn hóa dạy tiếng Anh và công nghệ thông tin, bồi dưỡng cán bộ, giáo viên, xây dựng chuẩn danh mục trang thiết bị giảng dạy du lịch, đặt hàng đào tạo cho các ngành khó tuyển sinh mà thị trường có nhu cầu và những nghề nhà nước ưu tiên phát triển. Cần hỗ trợ học sinh, sinh viên học nghề du lịch gắn với nông thôn của các địa phương chưa tự cân đối được ngân sách. Tổ chức kiểm định chất lượng đào tạo và dạy nghề du lịch, xây dựng các trung tâm kiểm định chất lượng công lập, xây dựng tiêu chuẩn và biên soạn đề thi kỹ năng nghề, xây dựng các trung tâm đánh giá kỹ năng nghề quốc gia và hỗ trợ chi phí đánh giá kỹ năng nghề du lịch cho người lao động.

c) Kiểm tra, giám sát và nâng cao hiệu quả nguồn vốn NSNN

- Xây dựng cơ chế chi tiêu nội bộ tại các CSĐTDL trên nguyên tắc tập trung dân chủ, công khai, chống lãng phí, nâng cao hiệu quả nguồn vốn đầu tư. Xây dựng bộ chỉ tiêu và quy trình đánh giá hiệu quả chi NSNN nhằm nâng cao hiệu quả quản lý chi NSNN

- Vận dụng và sử dụng có hiệu quả quyền tự chủ về mức chi, nội dung chi phân bổ NSNN. Điều này đồng nghĩa với việc nâng cao được nguồn thu trong các CSĐTDL, góp phần phát triển NNLDL.


3.3.1.2. Tích cực khai thác nguồn vốn ngoài NSNN

Đến năm 2020, nhu cầu về vốn đầu tư ngoài NSNN chiếm tỷ trọng lớn nhất. Nguồn vốn này được coi là nguồn vốn tiềm năng cần được khai thác triệt để. Nguồn vốn từ NSNN nên được ưu tiên để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật, còn lại các yếu tố khác nên được đầu tư từ nguồn vốn xã hội hóa. Một số giải pháp cụ thể như sau:

Nâng cao nguồn vốn từ dân đóng góp qua hình thức học phí, lệ phí

So với nhu cầu, hiện tại vốn đầu tư từ người dân đóng góp chưa đáp ứng đủ, do vậy giai đoạn tới cần thiết phải tích cực khai thác nguồn này sao cho vừa tăng quy mô vừa đảm bảo cơ cấu vốn mục tiêu vừa đảm bảo nâng cao được hiệu quả đầu tư.

Muốn nâng cao được nguồn vốn huy động từ dân qua hình thức thu học phí, lệ phí thì trước hết cần thu hút được số lượng học sinh, sinh viên học nghề du lịch. Giai đoạn tới cần xây dựng và thực hiện định hướng cơ cấu ngành đào tạo, dạy nghề du lịch. Bộ VHTTDL sẽ chủ trì phối hợp với Bộ GDĐT, Bộ LĐTBXH công khai cơ cấu ngành đào tạo của mạng lưới CSĐTDL toàn quốc để các cơ sở đào tạo điều chỉnh cơ cấu ngành đào tạo, dạy nghề phù hợp với nhu cầu của nền kinh tế, xã hội và người học có thể tự điều chỉnh nguyện vọng chọn ngành học, nghề học vừa phù hợp với cá nhân vừa phù hợp với nhu cầu của nền kinh tế, xã hội. Căn cứ cơ cấu ngành, nghề đào tạo, dạy nghề du lịch thực tế và định hướng nhu cầu NNLDL của nhà nước trong từng giai đoạn phát triển của đất nước để mở ngành, mở nghề tại các cơ sở đào tạo, dạy nghề du lịch. Nhà nước cần xây dựng các chính sách kinh tế để điều chỉnh cơ cấu ngành, nghề đào tạo du lịch cho phù hợp với yêu cầu phát triển của đất nước. Căn cứ các tiêu chí để các CSĐTDL tự xác định quy mô tuyển sinh hàng năm theo hướng vừa đảm bảo chất lượng đào tạo, vừa đảm bảo chủ động cho các cơ sở đào tạo mà Bộ GDĐT và Bộ LĐTBXH


sẽ ban hành, Bộ VHTTDL cần cụ thể hoá và hướng dẫn và tổ chức thực hiện phù hợp với đặc thù đào tạo về du lịch. Bộ VHTTDL cần phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương liên quan, với các cơ quan chủ quản của các cơ sở đào tạo tham gia đào tạo du lịch để tăng cường kiểm tra, giám sát các cơ sở đào tạo thực hiện đúng các điều kiện tuyển sinh đảm bảo chất lượng đào tạo. Cần đánh giá và dự báo nhu cầu lao động trong ngành Du lịch, trên cơ sở đó xây dựng chương trình đào tạo nghề cho người lao động. Có chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp có tổ chức đào tạo nghề cho người lao động, cho phép các cơ sở đào tạo nghề tại các doanh nghiệp được phép chiêu sinh đào tạo ngoài chỉ tiêu của nhà nước, có thu phí theo quy định của nhà nước và được miễn thuế dạy nghề. Tham mưu cho các cơ quan có thẩm quyền ban hành những chính sách khuyến khích học sinh học nghề đi đôi với các chính sách khuyến khích phát triển lao động có kỹ thuật, công nhân lành nghề, bậc cao, làm thay đổi căn bản định hướng giá trị xã hội của công tác đào tạo nghề, các chính sách ưu đãi đối với giáo viên dạy nghề, nhất là với những nghề có tính đặc thù cao như ngành Du lịch.

Đối với các CSĐTDL công lập, từ khi có Nghị định 43/2006/NĐ-CP của Chính phủ về giao quyền tự chủ tài chính cho các đơn vị sự nghiệp công lập thì các CSĐTDL công lập được tự chủ về mức chi, mức thu. Thu học phí không chỉ có ý nghĩa về kinh tế, hỗ trợ cho nguồn NSNN mà còn có ý nghĩa chính trị xã hội trong việc nêu cao tự giác của người dân khi hưởng dịch vụ đào tạo NNLDL. Một vấn đề bất cập là các cơ sở này chưa được tự chủ hoàn toàn về mức thu học phí mà chỉ được thu học phí theo khung học phí mà nhà nước quy định. Các cơ sở đào tạo không được thu học phí cao hơn mức trần trong khung học phí đã được quy định, do vậy nguồn vốn huy động được từ học phí phụ thuộc vào số lượng học sinh, sinh viên được đào tạo. Mặc dù từ sau Nghị định 49/2010/NĐ-CP của Chính phủ quy định về miễn, giảm học


phí, hỗ trợ chi phí học tập và cơ chế thu, sử dụng học phí đối với cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân từ năm học 2010 - 2011 đến năm học 2014 – 2015, khung học phí tăng làm cho mức thu học phí của các cơ sở đào tạo công lập tăng lên rõ rệt. Tuy nhiên, trong từng CSĐTDL, những ngành nghề đào tạo khác nhau với chi phí đào tạo khác nhau thì vẫn thu đồng đều một mức học phí cho nên dẫn đến tình trạng có những ngành mức học phí không đủ bù đắp chi phí đào tạo, trong khi có ngành thì chênh lệch thu – chi quá lớn. Do vậy, nên có một khung học phí linh hoạt cho các cơ sở đào tạo áp dụng đối với từng ngành, nghề đào tạo, đảm bảo cho các cơ sở đào tạo đủ bù đắp chi phí đào tạo và đảm bảo quyền lợi của người học. Vì vậy, đối với các CSĐTDL công lập vẫn cần có khung học phí nhưng rộng hơn để các CSĐTDL chủ động áp dụng đối với từng ngành, nghề, hệ đào tạo.

Từ kinh nghiệm quốc tế và kinh nghiệm thực tiễn về tự chủ ở các nước, quyền tự chủ cho các CSĐTDL cần được giao đồng bộ, bao gồm tự chủ nguồn nhân lực, tự chủ trong các vấn đề liên quan đến tuyển sinh và quản lý sinh viên, tự chủ trong các vấn đề liên quan đến quản lý hành chính, tài chính, quản lý và sử dụng ngân sách, nguồn tài chính. Các khía cạnh này liên quan chặt chẽ với nhau, nếu không có được quyền tự chủ trong mặt này thì quyền tự chủ ở các mặt khác không thể phát huy đầy đủ được. Khi được giao tự chủ về tài chính thì cần được giao quyền chủ động trong tuyển sinh, xây dựng mức thu học phí và các khoản thu. Hiện nay, các CSĐTDL đang tuyển sinh theo chỉ tiêu được giao nên không được tự quyết định số lượng tuyển sinh cho phù hợp với năng lực hiện có và nhu cầu xã hội. Các quy định pháp lý về quyền tự chủ cho các CSĐTDL cần được thống nhất, nhất quán và cùng được cập nhật ở các văn bản quản lý khác nhau, để các CSĐTDL có được quyền tự chủ trọn vẹn và có cơ chế hỗ trợ thực hiện quyền tự chủ đó, tránh tình trạng trao quyền tự chủ nhưng vẫn bị trói buộc bởi cơ chế.


Các CSĐTDL thực hiện chương trình đào tạo, dạy nghề chất lượng cao được thu học phí tương xứng để trang trải chi phí đào tạo. Quán triệt và đẩy nhanh việc thực hiện Nghị định 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 của Chính phủ, xây dựng chính sách, cơ chế tạo môi trường pháp lý để các CSĐTDL hoạt động tự chủ, độc lập, giảm sự can thiệp và bao cấp của nhà nước, gắn kết quả cuối cùng với thực tế nhu cầu của xã hội. Xây dựng Nghị định của Chính phủ về hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực đào tạo NNLDL (doanh nghiệp đào tạo nhân lực) và về các tổ chức hoạt động phi lợi nhuận trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo và dạy nghề.

CSĐTDL ngoài công lập được hoàn toàn tự chủ về tài chính, đảm bảo nguồn thu đủ bù đắp chi phí. Hiện nay, không có một khung học phí bắt buộc nào quy định cho các CSĐTDL ngoài công lập, mức học phí thường cao hơn rất nhiều so với mức học phí trong các CSĐTDL công lập. Điều này tạo điều kiện cho các cơ sở có nguồn để trang trải chi phí, hiện đại hóa, nâng cấp cơ sở vật chất, nâng cao đời sống cán bộ, giáo viên. Đây chính là động lực cho các cơ sở đào tạo ngoài công lập phải nâng cao chất lượng đào tạo, đáp ứng được chuẩn đầu ra trong điều kiện HNKTQT. Tuy nhiên, do không có quy định cụ thể về trần học phí nên các CSĐTDL ngoài công lập có thể tự đưa ra mức học phí không phù hợp với chất lượng đào tạo.

Nhà nước nên có quy định rõ ràng về mô hình, chế độ tài chính, trách nhiệm của các cơ sở đào tạo hoạt động theo cơ chế phi lợi nhuận và cơ sở đào tạo hoạt động theo cơ chế doanh nghiệp. Hơn nữa, nên quy định điều kiện, thủ tục chuyển đổi cơ sở đào tạo công lập sang ngoài công lập, thủ tục cổ phần hóa các cơ sở đào tạo thuộc doanh nghiệp có vốn nhà nước. Các CSĐTDL ngoài công lập cần được nhà nước hỗ trợ về vốn, cơ sở vật chất như cho vay ưu đãi, cấp đất xây dựng (không thu thuế đất, lệ phí trước bạ, thuế thu nhập…) trong những năm đầu đi vào hoạt động. Tiếp tục thực hiện và kịp thời


sửa đổi, bổ sung những chính sách ưu đãi về thuế, tín dụng, lãi suất, đất đai… bình đẳng chung đối với các cơ sở giáo dục, đào tạo du lịch không phân biệt công lập, ngoài công lập để khuyến khích phát triển nhân lực du lịch.

Trong điều kiện HNKTQThiện nay, các cơ sở đào tạo, dạy nghề du lịch muốn huy động được nguồn vốn lớn từ thu học phí thì phải nâng cao chất lượng đào tạo, dạy nghề từng bước tạo nên thương hiệu trên thị trường để thu hút học sinh, sinh viên và học viên khác.

Đẩy mạnh nguồn vốn huy động từ xã hội hóa (ngoài học phí, lệ phí) cho phát triển NNLDL

Để đáp ứng nhu cầu về vốn đầu tư cho phát triển NNLDL, tăng cường HĐVĐT từ xã hội hóa du lịch là xu thế tất yếu của các CSĐTDL trong điều kiện HNKTQT hiện nay. Mỗi công dân, mỗi tổ chức kinh tế, xã hội có trách nhiệm phát triển NNLDL, thu hút mạnh các doanh nghiệp tham gia phát triển NNLDL.

Thứ nhất, Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ đối với các CSĐTDL, nhất là các cơ sở đào tạo ngoài công lập trong việc thực hiện xã hội hóa như chính sách thuế, đất đai như có chính sách tạo quỹ đất và giao đất miễn phí cho các CSĐTDL được chấp thuận theo quy hoạch, ưu đãi thuế cho giáo dục nói chung và đào tạo du lịch nói riêng ở mức cao nhất. Nhà nước có chính sách khuyến khích (ưu đãi tín dụng, thuế, hỗ trợ ngân sách đào tạo…) để huy động tối đa sự tham gia của doanh nghiệp, làng nghề trong việc phát triển đào tạo, dạy nghề du lịch dưới các hình thức như tổ chức đào tạo tại doanh nghiệp, đầu tư cơ sở đào tạo, dạy nghề; liên kết với các cơ sở đào tạo, dạy nghề để sinh viên, học sinh được thực tập và giáo viên, giảng viên được kiến tập nâng cao tay nghề; có chính sách huy động doanh nghiệp đóng góp kinh phí đào tạo khi tiếp nhận lao động qua đào tạo, dạy nghề nghề vào làm việc.


Thứ hai, Khai thác có hiệu quả quỹ đào tạo của các doanh nghiệp kinh doanh du lịch để đào tạo lại nhằm nâng cao chất lượng nhân lực du lịch. Đào tạo lại nhân lực du lịch tại doanh nghiệp du lịch được gọi là đào tạo “tại chỗ”. Việc thực hiện đào tạo “tại chỗ” NNLDL của các tổ chức, doanh nghiệp du lịch đã góp phần nâng cao chất lượng NNLDL. Các tổ chức, doanh nghiệp du lịch đào tạo NNLDL bằng cách thành lập các cơ sở đào tạo, cơ sở thực hành ngay tại nơi hoạt động. NNLDL đòi hỏi kiến thức về nghiệp vụ chuyên môn qua đào tạo thực hành nên việc các tổ chức, doanh nghiệp đào tạo “tại chỗ” sẽ tận dụng được cơ sở vật chất kỹ thuật, làm gắn kết giữa lý thuyết – thực hành nghề du lịch. Cơ sở du lịch sử dụng quỹ đào tạo để đào tạo chuyên sâu ngay tại cơ sở. Mở rộng hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, liên doanh, liên kết của các cơ sở đào tạo, dạy nghề du lịch để tạo nguồn thu để bổ sung kinh phí đào tạo.

Với việc đóng góp của các tổ chức, doanh nghiệp du lịch cho đào tạo phát triển NNLDL như đã nêu trên sẽ đạt được mục tiêu đào tạo nghề du lịch theo nhu cầu xã hội, đảm bảo có NNLDL theo kịp với sự phát triển của nền kinh tế trong điều kiện HNKTQT.

Thứ ba, phát triển NNLDL rất cần sự quan tâm, tài trợ của các tổ chức, cá nhân thông qua việc trao học bổng, hỗ trợ tài năng, thưởng cho các sinh viên có thành tích học tập cao, sinh viên nghèo vượt khó. Với sự nghiệp đào tạo NNLDL, cần có các quỹ hỗ trợ, chia sẻ nguồn kinh phí đào tạo của các tổ chức, doanh nghiệp du lịch. Các CSĐTDL là nơi cung cấp NNLDL cho các tổ chức, doanh nghiệp du lịch nên để gắn kết chặt chẽ giữa đào tạo và sử dụng nguồn lao động sau đào tạo cần có hợp đồng đào tạo về tiêu chuẩn đầu ra của học sinh, sinh viên khi ra trường của các tổ chức sử dụng lao động. Việc hợp tác giữa CSĐTDL và doanh nghiệp du lịch tạo điều kiện để xây dựng mô hình

Xem tất cả 251 trang.

Ngày đăng: 12/04/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí