Đa Dạng Hóa Các Hình Thức Huy Động Vốn Đầu Tư Cho Nông Nghiệp- Nông Thôn Nói Chung Và Kinh Tế Hộ Sản Xuất Nói Riêng


trồng trọt, chăn nuôi cần phải đầu tư tín dụng để mở rộng xây dựng kết cấu hạ tầng ở nông thôn, những công trình dưới hình thức Nhà nước và nhân dân cùng làm như: đường giao thông nông thôn, điện cho sản xuất và sinh hoạt ở nông thôn…; các trang thiết bị máy móc phục vụ sản xuất, phát triển dịch vụ, ngành nghề, nhu cầu tiêu dùng, tạo bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn. Tùy theo quy mô sản xuất, khả năng vốn tự có của từng hộ gia đình, NHNo&PTNT Việt Nam cho vay phần vốn bổ sung còn thiếu.

Mở rộng cho vay hộ nông dân hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ và sản xuất phi nông nghiệp. Cho vay xây dựng, sửa chữa nhà ở và các nhu cầu tiêu dùng khác ở nông thôn, kinh tế nông thôn ngày càng phát triển thì đời sống hộ nông dân được nâng lên, nhu cầu tiêu dùng của kinh tế hộ sản xuất ngày càng cao. Vì vậy, mở rộng cho vay xây dựng, sửa chữa nhà ở, mua sắm các vật dụng thiết yếu trong gia đình cũng như các nhu cầu về tài chính khác đã giúp cho hộ thỏa mãn và an tâm hơn để sản xuất.

Tăng cường cho vay chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn và chương trình xây dựng nông thôn mới. Tăng cường đầu tư tín dụng chuyển đổi cây trồng, vật nuôi là từng bước góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo vùng. Bảo đảm tính cân đối hài hòa giữa trồng trọt với chăn nuôi, giữa ngành nghề truyền thống với các cụm, khu công nghiệp, hình thành các vùng kinh tế hàng hóa tập trung, chú trọng vùng sản xuất nguyên liệu cho công nghiệp, có năng lực cạnh tranh và xuất khẩu.

NHNo&PTNT Việt Nam cần căn cứ vào quy hoạch sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp trên từng địa bàn để xây dựng dự án đầu tư vốn vào từng đối tượng vay cụ thể, phù hợp. Mở rộng đầu tư vốn trung, dài hạn đến các thành phần kinh tế để phục vụ xây dựng kết cấu hạ tầng, đáp ứng yêu cầu chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp. Trong đầu tư cần chú ý nâng cao trình độ công nghệ sản xuất, chế biến và bảo quản, tăng tỷ trọng hàng hóa có hàm lượng chế biến và các loại sản phẩm có giá trị kinh tế cao, đa dạng hóa sản phẩm, chú trọng những sản phẩm hàng hóa gắn với thị trường xuất khẩu. Tín dụng Ngân hàng tập trung vào các đối tượng nhằm thúc đẩy quá trình


chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn như trên là rất cần thiết để đảm bảo kinh tế hộ nông nghiệp phát triển đúng hướng, đúng quy hoạch chung.

3.2.7. Đẩy mạnh việc cho vay qua tổ vay vốn

Phối hợp với Hội nông dân tỉnh thực hiện tốt Nghị quyết liên tịch 2308 và phối hợp tốt với Hội phụ nữ thực hiện có hiệu quả Thông tư liên tịch số 02. Định kỳ tổ chức sơ kết hay rút kinh nghiệm trong quá trình chỉ đạo phối hợp, để nhân rộng những điển hình tiên tiến.

Trên cơ sở phát huy những kết quả đạt được và định hướng phát triển của NHNo&PTNT Việt Nam và Trung ương Hội nông dân để cùng với hội nông dân các cấp xây dựng các tổ vay vốn có chất lượng cao, được kiểm soát chặt chẽ và hoạt động đúng quy chế để mở rộng cho vay. Nâng cao chất lượng tín dụng cho vay qua tổ bằng việc xây dựng các tổ loại A, cho vay các thành viên trên cơ sở bình xét thực chất bảo đảm khoản vay đúng đối tượng và phù hợp với khả năng trả nợ, nâng cao vai trò và trách nhiệm của tổ trưởng, của các cấp hội. Chấn chỉnh tổ cũ và mở rộng thêm tổ mới, thành viên mới.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 162 trang tài liệu này.

Chú ý các giải pháp:

- Phân loại tổ trên cơ sở các tiêu chí đã thống nhất với các cấp hội để có giải pháp củng cố và tần suất kiểm tra hợp lý. Hệ thống các tiêu chí phân loại cần có tiêu chí riêng đánh giá vai trò của tổ trưởng vì đây là nhân tố quan trọng nhất.

Chất lượng tín dụng hộ sản xuất tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam - 17

- Phân loại thành viên vay vốn theo các tiêu chí: tình hình vay trả, sử dụng vốn, hiệu quả phương án vay vốn và khả năng trả nợ, trả lãi. Xác định và công bố công khai kết quả phân loại và mức dư nợ phù hợp của từng thành viên để nâng cao chất lượng tín dụng, hiệu quả kinh doanh qua nâng cao ý thức sử dụng vốn, trả nợ gốc lãi của từng thành viên; làm tốt việc phân tích, công khai lãi nợ để phòng tránh chiếm dụng vốn của tổ trưởng.

- Phát triển thêm thành viên thông qua việc hình thành các tổ lớn hơn, phát triển thêm tổ mới ở các vùng dân cư, hình thành thêm các loại tổ vay vốn ngành nghề, tổ vay vốn kết hợp với doanh nghiệp nông thôn ...


- Tăng cường tuyên truyền cho tổ viên, đào tạo lại cho tổ trưởng, cải tiến cách quan hệ, giải quyết cho vay của tín dụng địa bàn đối với cho vay qua tổ để có được các tổ trưởng chuyên nghiệp hơn, kiểm soát chặt chẽ hơn của CBTD và của các tổ chức chính trị xã hội.

3.2.8. Đa dạng hóa các hình thức huy động vốn đầu tư cho nông nghiệp- nông thôn nói chung và kinh tế hộ sản xuất nói riêng

3.2.8.1. Cơ sở của giải pháp

Nhằm khác phục những hạn chế và nguyên nhân gây nên hạn chế được luận án nêu ở chương 2, đó là của NHNo&PTNT Việt Nam nói chung và các chi nhánh ở các địa phương có tỷ trọng cho vay vốn Hộ sản xuất ở mức lớn, vẫn thiếu vốn, phải điều hòa từ hệ thống, không chủ động được nguồn vốn; lãi suất cho vay còn cao, các hình thức huy động vốn chưa đa dạng,…Bên cạnh đó xuất phát từ đặc điểm Hộ sản xuất nêu ở chương 1, cũng như những cơ sở mà các NHTM cổ phần đang cạnh tranh mở rộng cho vay vốn Hộ sản xuất nêu ở đầu chương 2; đồng thời để thực hiện được mục tiêu chiến lược của NHNo&PTNT Việt Nam về nâng cao chất lượng tín dụng Hộ sản xuất nêu ở mục 3.1. Việc đa dạng hóa hình thức huy động vốn sẽ tạo điều kiện cho lãi suất đầu vào thấp hơn, có nguồn vốn ổn định hơn, gắn với bán chéo các sản phẩm dịch vụ khác,… sẽ tạo điều kiện nâng cao chất lượng tín dụng Hộ sản xuất.

Đồng thời những thách thức của nông nghiệp Việt Nam khi tham gia TPP là rất lớn, đòi hỏi nhu cầu vốn vay của hộ sản xuất, của kinh tế trang trại để nâng cao sức cạnh tranh là rất lớn, vì vậy NHNo&PTNT Việt Nam cần chủ động nguồn vốn để cho vay lĩnh vực này.

3.2.8.2. Những lợi ích và đề xuất cụ thể của giải pháp này

- Áp dụng các hình thức huy động vốn phù hợp với diễn biến tình hình kinh tế - xã hội.

Trong chiến lược huy động vốn của NHNo&PTNT Việt Nam hiện nay cần phải khai thác tối đa các nguồn vốn còn tiềm ẩn trong dân cư dưới dạng vàng bạc đá quý. Huy động vốn thông qua các hình thức tiết kiệm truyền thống như không kỳ hạn, có kỳ hạn, tăng cường huy động loại vốn trung, dài hạn. Chủ động phát hành kỳ


phiếu, trái phiếu Ngân hàng với mức lãi suất và hình thức hấp dẫn có đảm bảo bằng vàng, bằng ngoại tệ, với thời gian gửi dài hạn 5,7,10 năm…, tạo điều kiện cho người mua được quyền chuyển nhượng quyền sở hữu trên thị trường bất cứ lúc nào, cần tạo lập nguồn tài chính để bù lỗ khi có rủi ro về tỷ giá.

Ngoài những hình thức huy động truyền thống được áp dụng cho từng nhóm khách hàng như lâu nay. NHNo&PTNT Việt Nam phải hết sức coi trọng đối với nhóm người có thu nhập thấp nhưng lại chiếm đa số trong tầng lớp dân cư. Do đó việc huy động vốn phải có hình thức riêng như tiết kiệm gửi góp theo tháng, quý…

Bên cạnh đó cần phải đa dạng hóa các loại hình dịch vụ của Ngân hàng như chuyển tiền, dịch vụ nhận kiều hối, dịch vụ ATM… để huy động vốn. Cần chú trọng các thời điểm huy động tốt nhất trong năm để triển khai các hình thức huy động vốn thích hợp.

- Điều chỉnh lãi suất huy động vốn linh hoạt phù hợp với tỷ lệ lạm phát

Thực tế tỷ lệ lạm phát các năm qua tăng rất nhanh, làm cho lãi suất tiền gửi thường thấp hơn tỷ lệ lạm phát, do đó khách hàng không muốn gửi tiền vào Ngân hàng. Nên trong việc huy động vốn của NHNo&PTNT Việt Nam cần có biện pháp giảm chi phí hoạt động, tăng cường các nguồn thu để có kết quả tài chính tốt nhằm chủ động tăng lãi suất, điều chỉnh lãi suất linh hoạt để huy động vốn theo sát với tình hình cung cầu vốn trên thị trường và chỉ số lạm phát từng thời kỳ theo hướng lãi suất tiền gửi thực dương.

Bên cạnh yếu tố lãi suất thì NHNo&PTNT Việt Nam cũng cần tăng thêm các hình thức khuyến mại khác như: quà tặng, quay số dự thưởng, bốc thăm trúng thưởng, hoặc thưởng theo số tiền gửi… nhằm thu hút ngày càng nhiều khách hàng gửi tiền.

- Có chính sách thu hút vốn nhàn rỗi từ khu vực nông thôn và hộ sản xuất.

- Huy động vốn từ các tổ chức kinh tế, doanh nghiệp, cá nhân và các tổ chức

xã hội.

Cần phải khuyến khích các đơn vị kinh tế, tổ chức xã hội, cá nhân thực hiện

việc thanh toán không dùng tiền mặt, mở thẻ ngân hàng để thanh toán vừa tiết kiệm được chi phí, vừa an toàn tài sản. Thực hiện tốt Chỉ thị 20/2007/CT-TTg của Thủ


tướng Chính phủ ngày 24 tháng 8 năm 2007 về việc chi lương qua tài khoản thẻ ATM ngân hàng, tạo điều kiện cho những người thu nhập bằng lương thanh toán dễ dàng thuận lợi, đẩy nhanh tiến độ triển khai máy ATM tại những nơi có điều kiện.

- Mở rộng mạng lưới tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật, ứng dụng công nghệ thông tin

Tiếp tục mở rộng mạng lưới ở những nơi có điều kiện, sắp xếp, tổ chức, tăng cường lực lượng cán bộ làm công tác huy động vốn, bố trí thêm cán bộ trực tiếp huy động vốn, khai thác tốt khách hàng gửi tiền.

NHNo&PTNT Việt Nam cho phép các chi nhánh NHNo&PTNT cơ sở áp dụng lãi suất mềm dẻo bằng các ngân hàng khác trên địa bàn, trên cơ sở khả năng tài chính cho phép.

Cho phép các chi nhánh NHNo&PTNT cấp cơ sở chủ động đặt ra một mức lãi suất hợp lý, khả thi, thuận lợi trong cạnh tranh được với các Ngân hàng thương mại khác trên cùng địa bàn, trên cơ sở báo cáo trung tâm điều hành để thuận tiện cho việc kiểm soát.

3.3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ

3.3.1. Đối với Chính phủ

3.3.1.1. Về Nghị định 41/NĐ-CP

- Chính phủ bổ sung sửa đổi Nghị định 41/2010/NĐ-CP để tháo gỡ khó khăn cho các hộ nông dân có đất sản xuất nông nghiệp nhưng cư trú tại các vùng ven thành thị, thị trấn cũng được hưởng chính sách ưu đãi vay vốn không có tài sản đảm bảo như hộ dân cư trú ở các xã.

- Đề nghị Chính phủ xem xét có phương án hỗ trợ cho khách hàng vay vốn thuộc đối tượng Nghị định 41/2010/NĐ-CP khi gặp khó khăn do yếu tố khách quan, thiên tai dịch bệnh... không phải đại trà trên diện rộng; có chính sách và quỹ phòng ngừa rủi ro để hỗ trợ nông dân trong sản xuất nông nghiệp khi gặp rủi ro bất khả kháng để ổn định tài chính, tái sản xuất của hộ gia đình được bền vững, vì: Nguồn vốn cho vay theo Nghị định 41/2010/NĐ-CP chủ yếu vẫn là vốn tự huy động của các NHTM. Trong tình hình hiện nay, lãi suất cho vay nông nghiệp - nông thôn là quá cao. Bên cạnh đó, sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực này phải đối mặt với rất nhiều rủi ro: thiên tai, dịch


bệnh, rớt giá...dẫn đến hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp, việc thu hồi vốn sẽ khó khăn.

- Chính phủ yêu cầu các Bộ ngành có liên quan hướng dẫn việc thực hiện Nghị định 41 một cách đồng bộ để Nghị định 41 thực sự phát huy hiệu quả.

3.3.3.2. Cần có chính sách phù hợp phát triển kinh tế hộ gia đình

- Giải quyết tốt vấn đề đất đai, điều chỉnh hạn mức đất nông nghiệp và đẩy nhanh công tác cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Nhà nước cần đẩy nhanh việc tích tụ nguồn lực sản xuất: Quy mô đất đai của hộ gia đình tương đối thấp, tại nhiều địa phương vùng đồng bằng sông Cửu Long chỉ đạt bình quân 0,817ha/1 hộ, tại vùng đồng bằng Bắc Bộ còn thấp hơn, ảnh hưởng đến phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hóa và ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, cần tích cực thực hiện đồn điền, đổi thửa.

Cần có những chính sách cho phép và khuyến khích chuyển đổi mục đích sử dụng đất một cách linh hoạt. Đối với đồng bằng Bắc Bộ cần đẩy nhanh tiến độ đồn điền, đổi thửa, xây dựng cánh đồng mẫu lớn ở vùng đồng bằng sông Cửu Long.

Mạnh dạn giao đất ở vùng kinh tế mới để nông dân có thể khai phá phát triển các vùng cây trồng chuyên canh, bảo đảm sử dụng diện tích đất nông nghiệp hiệu quả nhất. Cần thực hiện nhanh việc giao diện tích mặt nước để nuôi trồng thủy sản để thúc đẩy nuôi trồng thủy sản và bảo vệ môi trường.

- Có chính sách khuyến khích người dân làm giàu chính đáng và tạo điều kiện nâng cao thu nhập dân cư.

Tạo lòng tin cho người dân yên tâm bỏ vốn đầu tư bằng cách Nhà nước tạo ra môi trường đầu tư thuận lợi và hệ thống pháp luật đầy đủ cho sản xuất. Bảo vệ quyền sở hữu cho nhà đầu tư. Xã hội hóa việc đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn, động viên các nguồn lực tài chính của xã hội, của những người có vốn, doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế tham gia đầu tư từ đó tạo ra năng lực mới cho sản xuất, tạo nhiều cơ hội cho kinh tế hộ phát triển, tháo gở những vướng mắc trong đầu tư tín dụng Ngân hàng cho kinh tế hộ như thủ tục bảo đảm tiền vay; nâng mức cho vay không có bảo đảm, cho hộ vay tín chấp; giải quyết bù đắp thiệt hại do thiên


tai, dịch bệnh trên diện rộng; ban hành cơ chế hỗ trợ thu hồi nợ đối với hộ nông dân vay vốn theo quyết định số 69/1999/QĐ-TTg thúc đẩy kinh tế hộ phát triển, qua đó nâng cao thu nhập dân cư.

- Đẩy mạnh đầu tư cơ sở hạ tầng.

Tăng đầu tư từ Ngân sách Nhà nước và đa dạng các nguồn vốn để phát triển mạnh kết cấu hạ tầng nông thôn; thúc đẩy cơ giới hóa, hiện đại hóa nông thôn. Cần ưu tiên nâng cấp và xây dựng mới các hệ thống thủy lợi đồng bộ đi đôi với đổi mới và nâng cao hiệu quả quản lý để khai thác có hiệu quả các công trình đã đưa vào sử dụng, đáp ứng nhu cầu về nước cho nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, cho công nghiệp dịch vụ và nước cho sinh hoạt ở nông thôn.

- Hỗ trợ đắc lực kinh tế hộ trong tiêu thụ hàng hóa.

Thực hiện chính sách khuyến khích tiêu thụ nông sản hàng hóa thông qua hợp đồng, cần giải quyết mâu thuẫn trong mối quan hệ của doanh nghiệp với các hộ trong sản xuất nông nghiệp, tạo sự gắn kết thực sự bền vững trên nền tảng lợi ích kinh tế giữa doanh nghiệp với nông dân. Cần nghiên cứu cơ chế Nhà nước hỗ trợ đầu tư cho khâu lưu thông (chủ yếu phát triển kết cấu hạ tầng thương mại) nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho thương dân thuộc các thành phần kinh tế, trong đó có các HTX kiểu mới, các trang trại làm chủ thể ký hợp đồng kinh tế hai chiều để tiêu thụ nông sản.

- Phát triển hệ thống hợp tác xã và dịch vụ phục vụ sản xuất.

Giải pháp xây dựng, chuyển đổi các HTX để hỗ trợ cho kinh tế hộ phát triển, cụ thể là:

+ Kinh doanh những khâu mà kinh tế hộ không làm được hoặc làm không có hiệu quả.

+ Tổ chức kinh doanh công nghiệp, trước hết là công nghiệp chế biến và bảo quản nông phẩm để nâng cao giá trị sản phẩm nông nghiệp;

+ Làm tốt chức năng kinh doanh dịch vụ cung ứng vật tư, hàng hóa cho nông dân; đồng thời tổ chức tiêu thụ sản phẩm hàng hóa với giá cả có lợi cho xã viên.

Tổ chức chuyển giao kỹ thuật cho các hộ, gắn với hệ thống khuyến nông của Nhà nước.


Nhà nước cần tiếp tục cải cách hành chính, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước trong nông nghiệp, nông thôn; làm tốt các dịch vụ công như khuyến nông, kiểm tra giám sát chất lượng, tiêu chuẩn, thông tin thị trường và khoa học công nghệ, đào tạo cán bộ, thanh tra giống, thuốc bảo vệ thực vật, thuốc thú y, phân hóa học, vệ sinh thực phẩm, vệ sinh dịch tễ cho thú y và cây trồng…

- Phát triển mạnh mẽ hơn kinh tế trang trại.

Trang trại là hình thức sản xuất cao hơn hộ gia đình, được hình thành và phát triển trong thời kỳ công nghiệp hóa, thay thế kinh tế hộ tiểu nông tự cấp, tự túc.

Trang trại có những đặc điểm khác biệt với hộ gia đình. Mục đích chủ yếu của trang trại là sản xuất hàng hóa, quy mô đất đai và tiền vốn khá lớn, có cách thức tổ chức và quản lý sản xuất tiến bộ dựa trên chuyên môn hóa và thâm canh, ứng dụng tiến bộ khoa học – kỹ thuật, các trang trại đều sử dụng lao động làm thuê.

Hiện nay, tất cả các vùng nông thôn nước ta đã xuất hiện nhiều trang trại nông nghiệp, lớn lên từ những hộ nông dân làm ăn giỏi, có kiến thức về khoa học kỹ thuật và quản lý, tích lũy được vốn và tiến hành sản xuất hàng hóa có hiệu quả. Đây là loại hình kinh tế sản xuất hàng hóa đã và đang có triển vọng thúc đẩy sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn.

Với sự hình thành và phát triển của trang trại, đã xuất hiện sự kết hợp chặt chẽ giữa công nghiệp chế biến và nông nghiệp – tức là một dạng công nghiệp hóa ở nông thôn cần được khuyến khích. Sự phát triển kinh tế trang trại đã góp phần khai thác thêm nguồn vốn trong dân, khai thác thêm diện tích đất trồng, đồi, núi trọc, đất hoang hóa, tạo thêm việc làm cho lao động nông thôn, góp phần xóa đói giảm nghèo, tăng thêm nông sản hàng hóa cần được nhân rộng.

Nhà nước cần có chính sách riêng hỗ trợ kinh tế trang trại phát triển đúng hướng, thông qua công cụ thuế, vốn tín dụng, kỹ thuật, công nghệ, thị trường, đặc biệt là công nghệ sau thu hoạch và bao tiêu sản phẩm cho họ.


- Nâng cao vai trò của hộ gia đình trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Ở Việt Nam, hộ gia đình đóng vai trò quan trọng trong việc bảo tồn xã hội, phát triển kinh tế nông thôn, là cơ sở đảm bảo cho kinh tế tập thể tồn tại và thúc đẩy nông thôn quá độ lên một trình độ cao hơn: nông thôn sản xuất hàng hóa. Với kinh tế thị trường, vai trò kinh tế hộ được chú trọng, phát huy và vì vậy nó đóng vai trò quan trọng trong nhiều chính sách của Đảng và Nhà nước.

Do đặt nền tảng trên quy mô gia đình, cần phải lưu ý tính bền vững của gia đình. Rủi ro tín dụng không chỉ từ hoạt động sản xuất kinh doanh của hộ sản xuất không có hiệu quả mà còn xuất hiện từ nền tảng gia đình thiếu vững chắc: con cái hư hỏng, vợ chồng bất hòa, ly hôn…

Bảo đảm cho chính sách xã hội được thực hiện công bằng và có hiệu quả trên các lĩnh vực; áp dụng nhiều chính sách phù hợp tạo điều kiện cho các gia đình nghèo có đời sống vật chất bớt khó khăn, thì mới có thể làm tốt việc xây dựng quan hệ gia đình và đạo đức trong gia đình tốt đẹp.

- Kiến nghị khác.

+ Chính phủ nên dành một phần Ngân sách để trợ giá các sản phẩm nông nghiệp khi nông dân “được mùa rớt giá”, vì: Việc tiêu thụ sản phẩm cho nông nghiệp là vấn đề mang tính vĩ mô mà bản thân người nông dân không tự giải quyết được, do vậy đòi hỏi phải có sự trợ giúp từ Chính phủ và các Bộ, ngành từ dự báo đến tìm thị trường tiêu thụ sản phẩm cho nông dân.

+ Chính phủ cần có biện pháp chỉ đạo quyết liệt hơn để các địa phương, Bộ ngành có liên quan sớm hoàn thành việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận trang trại, giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản là vườn cây lâu năm, ao hồ nuôi trồng thủy sản, đồng muối, cho các hộ gia đình và chủ trang trại, tạo cơ sở pháp lý cho đối tượng này vay vốn được thuận lợi.

+ Chính phủ có hướng xử lý, chỉnh sửa, bổ sung quy định hiện hành xác định rõ ràng hơn trách nhiệm của cơ quan công chứng Nhà nước trong việc công chứng các loại giấy tờ có giá trị thế chấp hay các thủ tục pháp lý khác, trong thực tế hiện


nay, mặc dù các loại giấy tờ như giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ... đã được cơ quan công chứng nhà nước chứng nhận, nhưng khi có hiện tượng giả mạo xảy ra thì cơ quan công chứng lại không chịu trách nhiệm. đây là điều vô lý gây bất lợi cho hoạt động Ngân hàng.

3.3.2. Đối với Ngân hàng Nhà nước

3.3.2.1. Đối với cho vay nông nghiệp- nông thôn

- Ngân hàng Nhà nước nên có một cơ chế về phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro riêng đối với dư nợ cho vay lĩnh vực nông nghiệp - nông thôn như rút ngắn thời gian thử thách, cơ cấu lại nợ khi bị thiên tai dịch bệnh nên đưa vào nhóm 1 để Ngân hàng có điều kiện tái đầu tư tiếp mà không ảnh hưởng đến thu nhập của TCTD có tỷ trọng lớn vốn đầu tư cho nông nghiệp - nông thôn, giảm tỷ lệ trích lập DPRR.

- Sửa đổi thông tư 09/2012/TT-NHNN vì hộ sản xuất, kinh doanh tại nông thôn gặp rất nhiều khó khăn trong thực hiện, việc mua bán có hóa đơn thì giá cả hàng hóa thường cao hơn, thói quen sử dụng tiền mặt và thỏa thuận miệng trong giao dịch của người dân, theo đó thủ tục để giải ngân tại Ngân hàng trở nên rườm rà nhiều khi mang tính hình thức.

- Sửa đổi Quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN Ban hành quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng.

- Ngân hàng Nhà nước cần tăng cường kiểm tra giám sát về việc thực hiện quy định mức lãi suất huy động tối đa, đảm bảo sự cạnh tranh lành mạnh giữa các tổ chức tín dụng.

- Việc thu phí CIC cũng cần có cơ chế riêng đối với các đối tượng vay theo Nghị định 41/2010/NĐ-CP ngày 12/04/2010 của Chính phủ.

3.3.2.2. Đối với cho vay đóng tàu vỏ thép khai thác thủy sản xa bờ theo Quyết định 1787/TTr-CP của Thủ tướng Chính phủ

Do đây là chính sách thí điểm, nên cơ chế cho vay phải là cơ chế đặc thù, vì vậy: Đề nghị Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định rõ: “NHNo&PTNT Việt Nam chỉ sử dụng con tàu hình thành từ vốn vay làm tài sản thế chấp cho khoản vay” thay vì quy định “NHNo&PTNT Việt Nam xem xét tự quyết định việc có bổ sung


hay không bổ sung các tài sản khác ngoài tài sản hình thành từ vốn vay để đảm bảo cho khoản vay”. Bởi theo quy định cơ chế cho vay thông thường, nếu xét thấy tài sản hình thành từ vốn vay không đủ đảm bảo rủi ro, Ngân hàng nơi cho vay có quyền yêu cầu khách hàng bổ sung tài sản khác. Trên thực tế, khi ngư dân đã bỏ vốn tham gia vào việc đóng tàu, nghiêm túc thực hiện nghĩa vụ trả nợ Ngân hàng, thì các tài sản khác hầu như không còn, hoặc nếu có thì giá trị cũng không đáng kể, để bổ sung làm tài sản thế chấp.

3.3.2.3. Kiến nghị khác

NHNN Việt Nam cần nghiên cứu, xem xét tiếp tục linh hoạt hơn nữa một số cơ chế khuyến khích các NHTM cạnh tranh mở rộng cho vay nông nghiệp – nông thôn nói chung, trong đó có vùng ĐBSCL, như: tỷ lệ dự trữ bắt buộc, cho vay tái cấp vốn, sử dụng nguồn vốn huy động trên thị trường II,….Đồng thời NHNN cần tiếp tục có biện pháp cụ thể hơn khuyến khích các TCTD cạnh tranh, mở rộng mạng lưới hoạt động ở nông thôn, đặc biệt là vùng ĐBSCL.

NHNN trao đổi với Bộ tài chính, trình Chính phủ nên có cơ chế chủ động hơn về nguồn vốn cho Ngân hàng chính sách xã hội Việt Nam để mở rộng hơn các chương tình tín dụng chính sách, mở rộng hơn cho vay các đối tượng cận nghèo ở vùng nông thôn nói chung, trong đó có vùng ĐBSCL.

NHNN xem xét, nghiên cứu, tổng hợp những điểm không phù hợp của Nghị định 41 để phối hợp với các Bộ ngành có liên quan trình Chính phủ cho sửa đổi, bổ sung, như đã đề cập ở phần trên.

NHNN nên xem xét trình Chính phủ, hay trong điều hành chính sách tiền tệ cần hình thành một gói tín dụng cho vay tái cấp vốn đối với NHNo&PTNT Việt Nam để NHTM này cho HSX, kinh tế trang trại vay nâng cao năng lực cạnh tranh tham gia TPP.

3.3.3. Kiến nghị với chính quyền địa phương

Thứ nhất, các cấp chính quyền địa phương cần phối hợp tích cực với Ngân hàng trong công tác cho vay, kiểm tra, đôn đốc thu nợ.


Để hoạt động tín dụng đối với HSX ngày càng được mở rộng và đảm bảo đem lại hiệu quả kinh tế cần phải có sự phối hợp chặt chẽ của cấp uỷ, chính quyền địa phương từ tỉnh, huyện, xã. Các HSX phần lớn là hộ gia đình, hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như đời sống của họ có mối quan hệ chặt chẽ với chính quyền địa phương. Chính quyền địa phương là cấp vừa ra quyết định, lại vừa thực hiện quyết định, vừa phải theo đúng các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, vừa phải phù hợp với tình hình kinh tế tại địa phương. Do đó chính quyền địa phương hiểu rất rõ tình hình của hộ sản xuất. Như vậy để nâng cao hiệu quả tín dụng đối với HSX thì các cấp chính quyền địa phương nhận thức rõ vai trò vị trí quan trọng của mình để có các biện pháp phối hợp tích cực với nhau và với Ngân hàng.

Thứ hai, các ngành có liên quan và các cấp chính quyền địa phương cần phối hợp và tạo điều kiện cho Ngân hàng trong việc xử lý và phát mại tài sản thế chấp đối với các món vay không có khả năng hoàn trả.

Thứ ba, các địa phương cần phát triển nông nghiệp chế biến bền vững theo hướng đa dạng hóa sản phẩm, thâm canh dựa trên lợi thế của từng tiểu vùng. Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố cần chỉ đạo các sở, ban, ngành trên địa bàn hoàn thiện, phê duyệt quy hoạch các vùng sản xuất nông nghiệp hàng hóa. Trong quy hoạch cần chú ý những dự báo về biến đổi khí hậu, về hàng loạt đập thủy điện xuất hiện trên các dòng tác động đến sản xuất và đời sống của các hộ gia đình trên cơ sở đó có những giải pháp phù hợp.

3.3.4. Đối với các Bộ ngành liên quan

Các Bộ, ngành cần có nhiều giải pháp hơn nữa nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, nâng cao năng lực chế biến sản phẩm, khả năng tiếp thị nông sản ra thị trường quốc tế, nâng cao uy tín một cách bền vững các sản phẩm nông sản xuất khẩu của Việt Nam ở tất cả thị trường trên thế giới, đảm bảo lợi ích từ các chính sách ưu đãi đến trực tiếp người sản xuất.

- Bộ tài chính phối hợp với Bộ kế hoạch và đầu tư cần bố trí tăng vốn đầu tư ngân sách cho nông nghiệp, phát triển đồng bộ kết cấu hạ tầng nông thôn

Xem tất cả 162 trang.

Ngày đăng: 21/04/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí