đào tạo kép, đào tạo song tuyến như ở một số nước trên thế giới về đào tạo NNLDL.
Thứ tư, CSĐTDL thực hiện xã hội hóa được phép huy động vốn dưới dạng góp cổ phần, vốn góp từ cán bộ, giáo viên, người lao động, huy động các nguồn vốn hợp pháp khác thông qua hợp tác, liên kết với các cơ sở đào tạo khác, doanh nghiệp du lịch, các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước để đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, cơ sở thực hành nghề du lịch, gắn kết lý thuyết và thực hành, tích lũy kinh nghiệm đào tạo NNLDL tiên tiến của các nước trên thế giới. Cần sửa đổi, bổ sung Nghị định của Chính phủ về hợp tác, đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực đào tạo, dạy nghề theo hướng thông thoáng, thuận lợi về thủ tục, điều kiện đầu tư nhằm tăng cường huy động các nguồn vốn đầu tư nước ngoài cho dạy nghề, ưu tiên các Dự án vay vốn nước ngoài để đầu tư phát triển đào tạo, dạy nghề, đặc biệt là các Dự án hỗ trợ kỹ thuật, đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị, phát triển chương trình, học liệu, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý, giáo viên, giảng viên. Xây dựng chương trình cổ phần hoá các cơ sở đào tạo công lập, trước hết là các trường đại học, cao đẳng. Trên cơ sở kết quả và kinh nghiệm đạt được, tiếp tục triển khai rộng rãi cổ phần hoá cơ sở đào tạo công lập trên phạm vi cả nước trong những năm tiếp theo để đến năm 2020 về cơ bản hệ thống đào tạo nhân lực vận hành theo cơ chế thị trường.
Xã hội hoá hoạt động đào tạo NNLDL không chỉ là công việc của ngành giáo dục, ngành du lịch mà là sự nghiệp của toàn dân, của mọi tổ chức kinh tế xã hội dưới sự lãnh đạo của đảng và quản lý của nhà nước. Trong khi NSNN dành cho giáo dục còn hạn hẹp, xã hội hoá hoạt động đào tạo NNLDL là một giải pháp lâu dài, mang tính chiến lược. Xã hội hoá hoạt động đào tạo NNLDL nhằm đến thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục, nhằm làm cho không chỉ thế hệ trẻ mà là mọi người dân được hưởng các quyền lợi mà giáo dục đem đến đồng thời khuyến khích và tạo điều kiện cho mọi người dân, mọi
tổ chức chính trị - kinh tế - văn hoá - xã hội phát huy cao nhất trách nhiệm và năng lực của mình đóng góp cho cho sự nghiệp giáo dục. Xã hội hoá hoạt động đào tạo NNLDL còn nhằm đến mục tiêu xây dựng xã hội học tập trên đất nước, hình thành thói quen học suốt đời trong từng người dù là trí thức hay lao động chân tay, dù trẻ hay cao tuổi.
Đa dạng hóa nguồn tài chính từ nguồn vốn khấu hao và các dịch vụ tận thu
Vốn đầu tư được huy động từ nội bộ các CSĐTDL bao gồm nguồn vốn khấu hao, khoản thu từ dịch vụ ứng dụng. Nguồn vốn này làm giảm gánh nặng cho NSNN và người dân qua khoản thu học phí. Nhà nước cần xây dựng hành lang pháp lý để khuyến khích các cơ sở đào tạo thành lập doanh nghiệp kinh doanh, các cơ sở thực hành các ngành nghề du lịch mà các cơ sở hiện đang đào tạo, qua đó có thể cung cấp các sản phẩm du lịch mà học sinh, sinh viên đã thực hành ra thị trường, tạo thêm nguồn thu cho cơ sở đào tạo. Các sản phẩm du lịch này có đáp ứng được nhu cầu thị trường hay không là sự phản hồi chính xác nhất cho sự đào tạo đúng hướng, gắn với thực tiễn, thúc đẩy các cơ sở hoàn thiện cách thức đào tạo theo nhu cầu xã hội. Hình thức này tạo điều kiện cho các CSĐTDL ứng dụng được các kết quả nghiên cứu, thực nghiệm vào thực tiễn, hình thành mô hình đào tạo – nghiên cứu khoa học
– sản xuất ứng dụng. Khi vốn đầu tư của NSNN còn hạn hẹp, nguồn vốn tự bổ sung từ nội bộ các CSĐTDL là một nguồn không nhỏ góp phần giải quyết nhu cầu phát triển về cơ sở vật chất, chất lượng đào tạo, đời sống cán bộ, giáo viên.
Mở rộng hình thức tín dụng cho đào tạo du lịch
Có thể bạn quan tâm!
- Nhu Cầu, Khả Năng Và Quan Điểm Huy Động Vốn Đầu Tư Cho Phát Triển Nguồn Nhân Lực Du Lịch Việt Nam Trong Hội Nhập Kinh Tế Quốc Tế Đến Năm 2020
- Nhu Cầu Vốn Đầu Tư Cho Phát Triển Nnldl Đến Năm 2020
- Tích Cực Khai Thác Nguồn Vốn Ngoài Nsnn
- Chính Sách Về Đất Đai Đối Với Csđtdl Và Trung Tâm Dạy Nghề Du Lịch
- Huy động vốn đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực du lịch Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế - 24
- Số Liệu Về Đội Ngũ Giảng Viên, Giáo Viên, Đào Tạo Viên Và Cán Bộ Quản Lý Đào Tạo Du Lịch
Xem toàn bộ 251 trang tài liệu này.
Hiện nay, Chính phủ đã và đang có chương trình “Tín dụng đối với học sinh, sinh viên” thông qua Quyết định số 157/2007/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 27 tháng 9 năm 2007. Theo Quyết định này, học sinh, sinh
viên thuộc hộ nghèo, có hoàn cảnh khó khăn được vay vốn đi học với lãi suất ưu đãi từ quỹ tín dụng học sinh, sinh viên. Để đảm bảo quỹ tín dụng này được ổn định và tăng trưởng cần mở rộng nguồn thu và quản lý chặt chẽ khoản chi của quỹ. Ngoài nguồn hỗ trợ từ NSNN, nguồn thu của quỹ cần có sự đóng góp từ các đối tượng khác như người sử dụng lao động đã qua đào tạo, ngân hàng thương mại. Cần quản lý chặt chẽ các khoản thu, chi từ quỹ tránh thất thoát trong quá trình thực hiện. Đối với các khoản cho vay từ quỹ, phải đúng mục đích, đối tượng. Mục đích của khoản cho vay là hỗ trợ khó khăn về tài chính cho học sinh, sinh viên. Đối tượng được cho vay là học sinh, sinh viên thuộc hộ nghèo, có hoàn cảnh khó khăn đang theo học tại các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề du lịch. Việc thu hồi các khoản cho vay phải được giám sát chặt chẽ và kịp thời, nhất là đối với các đối tượng sau khi tốt nghiệp. Đối với các CSĐTDL, việc mở rộng các hình thức tín dụng học đường gián tiếp nâng cao nguồn thu từ học phí, lệ phí tạo điều kiện tốt hơn về nguồn vốn đầu tư cho các CSĐTDL.
Ngoài ra, các CSĐTDL nên huy động vốn tín dụng và sử dụng nguồn vốn này vào phát triển nguồn nhân lực. Đối với các doanh nghiệp du lịch, việc đào tạo lại, đào tạo tại chỗ nguồn nhân lực là hết sức cần thiết. Nguồn vốn sử dụng cho đào tạo và đào tạo lại nguồn nhân lực nên được bổ sung từ nguồn vốn tín dụng như phát hành trái phiếu doanh nghiệp, vay vốn từ ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng.
3.3.2. Giải pháp huy động vốn đầu tư ngoài nước cho phát triển nguồn nhân lực du lịch Việt Nam đến năm 2020
Nguồn vốn nước ngoài có vai trò rất quan trọng, không những đáp ứng một lượng vốn đầu tư lớn cho nền kinh tế nói chung cho phát triển NNLDL nói riêng mà còn tạo cơ hội để đổi mới công nghệ, đào tạo cán bộ và mở rộng thị trường du lịch.
Cơ cấu vốn ngoài nước chiếm trong tổng vốn đầu tư còn chiếm tỷ trọng nhỏ và mới chỉ tập trung ở các cơ sở du lịch công lập, đối với các CSĐTDL ngoài công lập thì vốn đầu tư ngoài nước hầu như không có, đối với các doanh nghiệp du lịch thì vốn đầu tư ngoài nước hầu hết chỉ tập trung vào cơ sở vật chất. Do vậy, trong giai đoạn tới, HNKTQT càng sâu rộng hơn, cần tăng cường huy động thêm vốn đầu tư ngoài nước, giảm bớt gánh nặng nguồn vốn đầu tư trong nước.
3.3.2.1. Tăng cường huy động vốn hỗ trợ phát triển chính thức ODA
Thứ nhất, phải có quan điểm đúng đắn về nguồn vốn ODA.
Nguồn vốn ODA mặc dù có một tỷ lệ không hoàn lại nhưng phần lớn là vốn vay. Nếu khó khăn trong việc trả các khoản vay này sẽ tăng gánh nặng nợ cho quốc gia. Do vậy, cần nhận thức đúng đắn về nguồn vốn ODA từ đó có kế hoạch thẩm định dự án cho phát triển NNLDL một cách cẩn thận và khoa học, lập kế hoạch trả nợ một cách chi tiết để nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn này. Phải coi ODA là nguồn lực bên ngoài có tính chất bổ sung chứ không thay thế nguồn lực nội sinh đối với quá trình phát triển ở cấp độ quốc gia, ngành, địa phương và đơn vị thụ hưởng.
Thứ hai, cần gắn kết và lồng ghép một cách đồng bộ chiến lược và kế hoạch thu hút và sử dụng ODA cho phát triển NNLDL với Chiến lược phát triển du lịch, Chiến lược phát triển NNLDL Việt Nam, các chính sách và quy hoạch phát triển ngành, vùng và quốc gia cũng như các kế hoạch dài hạn và hàng năm. Để nâng cao khả năng thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA, hệ thống văn bản pháp quy phải được thay đổi theo hướng thật minh bạch, cụ thể và có tính đồng bộ cao.
Thứ ba, lãi suất vay của ODA thường thấp nhưng ngày càng có xu hướng tăng và lãi suất này là lãi suất vay ngoại tệ nên khi tính lãi suất thực
phải tính đến sự giảm giá của đồng nội tệ. Do vậy, khi đàm phán vay vốn ODA cần tính trên lãi suất thực để có mức lãi suất thỏa thuận phù hợp.
Thứ tư, đẩy nhanh tốc độ giải ngân vốn ODA. Việt Nam vẫn là nước giải ngân chậm do các nguyên nhân như thiếu vốn đối ứng, do trình độ hạn chế của cán bộ quản lý dự án vốn ODA ở ngành, cũng như do thời gian chuẩn bị đầu tư thường kéo dài từ 2-3 năm, nên dễ ảnh hưởng bởi lạm phát cao.
3.3.2.2. Tích cực thu hút vốn FDI cho phát triển NNLDL
Bộ KHĐT cần thu hút dự án đầu tư nước ngoài một cách chọn lọc vào lĩnh vực du lịch và dành phần vốn cho phát triển NNLDL. Cần nâng cao chất lượng hoạt động xúc tiến đầu tư, đa dạng hóa nguồn cung vốn, nhất là "gọi" đầu tư từ những đối tác lớn như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc... bên cạnh việc tranh thủ gọi vốn từ khu vực EU, Trung Đông, vốn nhiều tiềm năng, nhưng đầu tư vào Việt Nam còn khiêm tốn.
Các bộ, ngành, địa phương tập trung tháo gỡ những tồn tại về quy định liên quan đến doanh nghiệp, đầu tư, đất đai, xây dựng để tạo điều kiện tốt nhất cho cộng đồng nhà đầu tư nước ngoài. Cơ chế hậu kiểm, giám sát và quản lý với các dự án đầu tư nước ngoài phải được xây dựng và ban hành để tạo cơ sở cho cơ quan quản lý nhà nước thực thi có hiệu quả chức năng kiểm tra, giám sát. Việc quy hoạch và quản lý quy hoạch phải được quy định trong một văn bản ở cấp đạo luật nhằm tránh tình trạng phát sinh nguy cơ chồng chéo, cấp phép tràn lan, khi việc cấp phép và quản lý đầu tư đã được phân cấp về các địa phương.
Những yếu kém của hệ thống cơ sở hạ tầng, điện, nước, giao thông, nhất là giải phóng mặt bằng sẽ được từng bước tháo gỡ với sự kết hợp giữa các bộ, ngành và chính quyền địa phương. Tăng tốc xây dựng và đẩy mạnh đầu tư trang thiết bị đào tạo nghề, trong đó có nghề du lịch để tăng số lượng lao động có tay nghề và kiến thức theo yêu cầu của các dự án.
Tiếp thị thu hút đầu tư nước ngoài vào đào tạo NNLDL Việt Nam, đầu tư cho tuyên truyền nâng cao nhận thức về giá trị của ngành Du lịch. Xây dựng hệ thống cơ sở đào tạo NNLDL gồm: quản trị, dạy nghề, đào tạo chuyên sâu theo cấp độ trung cấp, cao đẳng, đại học và trên đại học.
3.4. ĐIỀU KIỆN THỰC HIỆN GIẢI PHÁP HUY ĐỘNG VỐN ĐẦU TƯ CHO PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC DU LỊCH VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2020
Để thực hiện được những giải pháp HĐVĐT cho phát triển NNLDL Việt Nam trong điều kiện HNKTQT, cần có những điều kiện sau:
3.4.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm đa dạng hóa vốn đầu tư cho phát triển NNLDL Việt Nam
Cần thiết phải tiến hành rà soát, sửa đổi bổ sung chính sách, cơ chế và các văn bản quy phạm pháp luật đầu tư, tài chính trong lĩnh vực đào tạo và phát triển NNLDL Việt Nam. Bổ sung những quy định và cơ chế để phối hợp, liên kết giữa cơ quan quản lý về du lịch với CSĐTDL và cơ sở sử dụng NNLDL. Ban hành chính sách góp phần xoá bỏ tình trạng cơ sở đào tạo NNLDL thể hiện sự độc quyền, chưa gắn với nhu cầu xã hội, cơ sở sử dụng NNLDL không quan tâm đến đào tạo và bồi dưỡng NNLDL.
Ban hành cơ chế tạo ra sự cạnh tranh trong đào tạo NNLDL, có quy định kiểm soát được chất lượng đào tạo và định hướng đào tạo và liên kết giữa đào tạo và sử dụng NNLDL. Bổ sung các chính sách chuyển từ định hướng tập trung khuyến khích tăng nhanh về số lượng quy mô đào tạo NNLDL, sang quan tâm đầy đủ đến cải thiện cơ cấu, nâng cao trình độ, chất lượng đào tạo, tăng quá nhanh quy mô đào tạo phải đi liền với đảm bảo đầy đủ những điều kiện đào tạo. Ban hành chính sách với tầm nhìn dài hạn về cơ cấu đào tạo theo cấp trình độ và cơ cấu ngành, nghề đào tạo du lịch.
Chuyển những chính sách vẫn còn mang khá nặng tính chất kế hoạch hoá tập trung sang chính sách trao mạnh quyền tự chủ. Khẩn trương có những
chính sách và cơ chế đổi mới các cơ sở đào tạo khu vực công lập. Ban hành chính sách khuyến khích phát triển đào tạo ngoài công lập, sửa đổi, bổ sung những chính sách hiện hành cho phù hợp với yêu cầu thực tiễn. Chuyển dần việc kế hoạch hoá cứng nhắc theo kiểu giao chỉ tiêu tuyển sinh kể cả cho các cơ sở đào tạo ngoài công lập, khuyến khích phát triển rộng rãi các hình thức đào tạo nhân lực gắn với yêu cầu của thị trường lao động để huy động được tiềm lực. Đối với các CSĐTDL công lập cũng nên có cơ chế cấp ngân sách cho đào tạo hàng năm dựa vào số lượng tuyển sinh.
Có chính sách thoả đáng và hiệu quả để gắn kết các cơ sở đào tạo NNLDL với cơ sở sử dụng nhân lực và với hoạt động nghiên cứu khoa học. Ban hành những chính sách thiết thực, hiệu quả để khuyến khích phát triển đào tạo NNLDL ở các vùng nông thôn, miền núi và tổ chức triển khai hiệu quả, tăng cường quản lý hoạt động đào tạo, có chính sách và cơ chế, biện pháp cụ thể giảm bớt sự cách biệt về chất lượng đào tạo giữa các cơ sở đào tạo NNLDL ở khu vực đô thị và một số vùng đồng bằng và các cơ sở đào tạo cùng lĩnh vực ở cùng sâu, vùng xa.
3.4.2. Hoàn thiện chính sách đối với phát triển NNLDL
3.4.2.1. Chính sách đối với người học và người dạy
Chính sách đối với người học
Việc điều chỉnh chính sách đối với người học sẽ tạo điều kiện để người học có thể tham gia học tại các CSĐTDL, từ đó CSĐTDL có cơ hội để nâng cao nguồn thu, nâng cao chất lượng đào tạo.
Ngoài các chính sách hiện hành đối với học sinh, sinh viên đang theo học tại các cơ sở giáo dục, đào tạo cần bổ sung một số chính sách cho các đối tượng sau:
- Đối tượng lao động nông thôn: Hỗ trợ chi phí đào tạo nghề du lịch cho lao động nông thôn thực hiện theo Quyết định số 1956/QĐ-TTg của Thủ
tướng Chính phủ, ngày 27/11/2009 phê duyệt Đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020”.
- Hỗ trợ chi phí đào tạo nghề du lịch cho lao động chưa có nghề ở đô thị học trình độ sơ cấp và học nghề dưới 03 tháng: Đối với người được hưởng chính sách người có công với cách mạng, người thuộc hộ nghèo, người dân tộc thiểu số, người khuyết tật được hỗ trợ; đối với người thuộc hộ cận nghèo có thu nhập tối đa bằng 150% mức thu nhập của hộ nghèo; đối với các đối tượng còn lại được hỗ trợ với mức tối đa bằng 1/3 nhóm đối tượng thứ nhất (các mức hỗ trợ trên được xác định cụ thể theo từng nghề đào tạo và thời gian học nghề thực tế).
- Hoàn trả học phí đào tạo cho học sinh, sinh viên tốt nghiệp các cấp trình độ đại học, cao đẳng, trung cấp được tuyển dụng làm giáo viên, hướng dẫn nghề (tối thiểu 5 năm đối với giáo viên dạy cao đẳng nghề và 3 năm đối với giáo viên dạy trung cấp nghề) theo quy định của Nhà nước.
- Chính sách hỗ trợ đào tạo nghề du lịch cho bộ đội xuất ngũ thực hiện theo Quyết định số 121/2009/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, ngày 09/10/2009 về cơ chế hoạt động của các cơ sở dạy nghề thuộc Bộ Quốc phòng và chính sách hỗ trợ bộ đội xuất ngũ học nghề.
- Thực hiện Quyết định số 103/2008/QĐ -TTg của Thủ tướng Chính phủ, ngày 21/07/2008 về việc phê duyệt Đề án “Hỗ trợ thanh niên học nghề và tạo việc làm giai đoạn 2008 - 2015" cần có chính sách hỗ trợ đào tạo nghề du lịch khi các thanh niên học nghề du lịch.
- Chính sách hỗ trợ đào tạo du lịch cho phụ nữ thực hiện theo Quyết định số 295/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, ngày 26/02/2010 về việc phê duyệt Đề án “Hỗ trợ phụ nữ học nghề, tạo việc làm giai đoạn 2010-2015".
- Bổ sung đối tượng người học là thương binh, người khuyết tật đang theo học tại các cơ sở dạy nghề được hưởng học bổng chính sách đối với học