Các Thương Vụ M&a Nhtm Mang Lại Giá Trị Cộng Hưởng Cho Các Nhtm



NHTM, NHNN đã bước đầu đạt được mục tiêu củng cố năng lực quản trị của hệ thống NHTM, duy trì sự ổn định quy mô và chất lượng hoạt động của các NHTM, tháo gỡ khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế, chất lượng tín dụng được củng cố, nợ xấu được khoanh vùng giải quyết, môi trường kinh doanh được lành mạnh hóa tại nền tảng cho sự phát triển bền vững của các NHTM nói riêng và cả hệ thống NH nói chung.

2.5.1.2. Tác động tích cực đối với nền kinh tế

Hệ thống NH được coi là huyết mạch của nền kinh tế. Khi hệ thống NH thực sự khỏe mạnh thì cả nền kinh tế đều được hưởng lợi. Hoạt động thông suốt và hiệu quả của hệ thống NH góp phần duy trì và nâng cao hiệu quả các hoạt động kinh tế, thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội. Xét trên khía cạnh thực tế của nền kinh tế nước ta hiện có rất ít nguồn lực để hỗ trợ cho quá trình tái cơ cấu của hệ thống các TCTD, do đó việc các NH lớn mua các NH nhỏ để hình thành NH khỏe mạnh hơn là phương án tối ưu trong thời điểm hiện nay để nâng cao năng lực cạnh tranh của các NH. Trong các thương vụ M&A của SCB hay SHB có thể thấy các NH sau sáp nhập dễ bị mất lợi nhuận của những năm đầu vì phải bù đắp chi phí, xử lý nợ xấu của các TCTD kia. Tuy nhiên tác động tích cực đối với nền kinh tế do tận dụng được hệ thống mạng lưới, KH, nhân sự…Các NHTM cũng không mất thời gian để phát triển mạng lưới do tận dụng mạng lưới sẵn có của NH sáp nhập. NH cũng có thêm nguồn nhân lực và có thể chọn nguồn nhân lực tốt nhằm đáp ứng nhu cầu của NH, góp phần xây dựng một hệ thống tài chính NH thực sự khỏe mạnh.

Hoạt động mua bán sáp nhập mà các NHTM thực hiện đã góp phần đa dạng hóa đối tác đầu tư và hình thức đầu tư; thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo yêu cầu phát triển của đất nước, đồng thời tạo điều kiện giải quyết việc làm cho người lao động, giữ vững ổn định hệ thống thị trường tài chính quốc gia.

2.5.1.3. Hoạt động M&A NHTM tại Việt Nam gia tăng về số lượng và giá trị giao dịch Quá trình M&A NHTM ở Việt Nam diễn ra trong giai đoạn vừa qua đã có những ảnh hưởng tích cực góp phần phát triển vững mạnh hệ thống tài chính NH ở Việt Nam. Nếu như trước giai đoạn 2005, hoạt động M&A NHTM chủ yếu diễn ra dưới hình thức cơ cấu lại các NHTM CP nông thôn thì giai đoạn sau 2005, xu hướng bán lại cổ phần cho các đối tác nước ngoài trong các NHTM diễn ra mạnh mẽ. Từ



năm 2005 đến nay thị trường chứng kiến nhiều thương vụ M&A có giá trị cao với sự tham gia của nhiều nhà đầu tư nước ngoài. Trong giai đoạn tái cơ cấu hệ thống NH, hoạt động M&A diễn ra thực sự sôi động với nhiều thương vụ khác nhau, đa dạng về phương thức tiến hành và đối tác thực hiện, trong đó phương thức thực hiện chủ yếu là thương lượng dưới hình thức tự nguyện hoặc theo định hướng của NHNN. Việc các NHTM tự tìm đến với nhau, lựa chọn đối tác để thương thảo ra điều kiện mua bán phù hợp nhằm tạo ra một NH mới có tiềm lực mạnh hơn về tài chính, tiết kiệm được chi phí, nhân sự… không chỉ tạo ra giá trị gia tăng cho các bên tham gia thương vụ theo cấp số cộng thông thường, mà có thể theo cấp số nhân, do tận dụng được kinh nghiệm quản lý, nhân sự, công nghệ, thị trường... của các bên tham gia. Hoạt động M&A NHTM cũng diễn ra không chỉ các NHTM gặp khó khăn trong hoạt động thực hiện M&A nữa mà các NHTM CP quy mô khác nhau cũng nghiên cứu tìm đối tác M&A nhằm tăng năng lực cạnh tranh trên thị trường.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 230 trang tài liệu này.

2.5.1.4. Các thương vụ M&A NHTM mang lại giá trị cộng hưởng cho các NHTM

Lợi ích cộng hưởng là một trong những mục tiêu quan trọng của một thương vụ M&A NH, các bên tham gia thương vụ thường đặt kỳ vọng về lợi ích mà tổ chức sau M&A mang lại sẽ vượt xa lợi ích từ việc cộng hợp đơn thuần hai tổ chức độc lập và đơn lẻ với nhau. Những thương vụ M&A NH ở Việt Nam đã góp phần tinh giảm bộ máy hoạt động của các NH, giảm bớt sự cồng kềnh trong mô hình hoạt động. Các NH có quy mô vừa hoặc nhỏ trên thị trường khi sáp nhập lại thành một NH có quy mô lớn sẽ có được những lợi ích mà khi đứng riêng lẻ không có được. Sự kết hợp công nghệ và chuyên môn giữa các NH sẽ tạo ra những tổ chức mới có tính chuyên sâu, cung cấp những sản phẩm và dịch vụ có chất lượng cao hơn, hiện đại và tiên tiến hơn. Thông qua hoạt động M&A, tổ chức mới sau M&A có thể tận dụng công nghệ, mạng lưới chi nhánh, nhân sự, cơ sở khách hàng của các NH tham gia M&A, khai thác được những lợi thế, tăng thị phần, tận dụng quan hệ KH, tăng khả năng bán chéo sản phẩm, dịch vụ, tận dụng được các cơ hội kinh doanh mới, tạo lợi thế cạnh tranh với các đối thủ trên thị trường. Thông qua các thương vụ M&A đã thực hiện có thể thấy rằng, sau M&A tình hình tài chính và quản trị, điều hành của các NHTM Việt Nam được cải thiện đáng kể, bộ máy quản trị, điều hành được củng cố, nợ xấu dần được xử lý, hoạt động của NH sau M&A từng bước đi vào ổn

Hoạt động mua bán và sáp nhập ngân hàng thương mại tại Việt Nam - 17



định; quyền lợi và nghĩa vụ của người gửi tiền vẫn được đảm bảo, không gây hiệu ứng bất ổn tâm lý đối với KH.

Đối với hoạt động M&A thông qua việc mua bán cổ phần, góp vốn cũng mang lại nhiều lợi ích cho các NH. Trong công cuộc cải tổ hệ thống NH thời gian qua, TienPhongBank cũng không thoát khỏi nhóm những NH yếu cần thực hiện tái cơ cấu. Khi tập đoàn DOJI rót vốn vào TienPhong Bank năm 2012, NH này gặp rất nhiều khó khăn. Thế nhưng, những kết quả mà NH này đạt được sau đó khá bất ngờ. Sau quá trình tái cơ cấu đến nay, lợi nhuận của TienPhong Bank được cải thiện rất nhiều, lương cán bộ nhân viên đã được tăng 16%, huy động vốn đã tăng tới 28%. Đặc biệt, từ một NH yếu kém, bị hạn chế tăng trưởng tín dụng, sau khi tái cơ cấu, TienPhong Bank đã được cấp hạn mức tăng trưởng tín dụng lên tới 27%. Việc cấp hạn mức này cho thấy, TP Bank đã tạo được niềm tin với các nhà quản lý và duy trì được sự ổn định trong hoạt động.

Kết quả khảo sát từ những khách hàng có thời gian giao dịch từ 3-5 năm tại các NHTM thực hiện M&A – những KH thường xuyên thực hiện giao dịch ở NH cả trước và sau thời gian thực hiện M&A cho thấy 2/3 số KH được hỏi cảm thấy hài lòng về chất lượng sản phẩm dịch vụ của NH, các ý kiến đều cho rằng chất lượng dịch vụ của NH ngày càng được cải thiện, KH luôn tin tưởng sử dụng sản phẩm dịch vụ của NH.

Hình 2.7: Đánh giá chất lượng sản phẩm dịch vụ của NH sau M&A


Chất lượng sản phẩm dịch vụ của NH ngày càng được cải thiện

3%


7%

35%

10%

45%

Hoàn toàn không đồng ý Không đồng ý Băn khoăn Đồng ý Hoàn toàn đồng ý

Nguồn: Kết quả khảo sát của NCS



2.5.2. Những tồn tại

2.5.2.1. Phương thức tiến hành M&A NHTM chưa đa dạng

Các thương vụ M&A NH ở Việt Nam phần lớn diễn ra dưới hình thức thương lượng, mua bán cổ phần, sáp nhập hoặc hợp nhất theo sự cho phép của Chính phủ và NHNN, hoặc NHNN mua lại xử lý những NH yếu kém nhằm mục đích lành mạnh hóa hệ thống NH. Hoạt động M&A NHTM ở Việt Nam hiện nay hầu như chưa có các thương vụ lớn nào diễn ra giữa các NHTM thực sự có hoạt động lành mạnh liên kết với nhau nhằm muc tiêu tăng sức mạnh, hoạt động M&A NHTM xuyên biên hầu như không có nên mục đích lớn nhất của hoạt động M&A NHTM là sự cộng hưởng hầu như chưa được khai thác hết mà chủ yếu nhằm giải quyết các vấn đề nội tại bên trong mỗi NHTM. Bên cạnh đó, các thương vụ thâu tóm rất ít, phương thức chào thầu và lôi kéo cổ đông chưa được tiến hành. Đối với những thị trường có sự điều tiết mạnh của chính phủ việc gia nhập thị trường đòi hỏi NH phải đáp ứng những điều kiện khắt khe, hoặc chỉ thuận lợi trong một giai đoạn nhất định thì những NH đến sau chỉ có thể gia nhập thị trường thông qua thâu tóm, những NH đã hoạt động trên thị trường tuy nhiên ở Việt Nam hiện nay hầu như chưa có một thương vụ thâu tóm nào vì trên thực tế hoạt động này vẫn bị ràng buộc nhiều quy định về tỷ lệ sở hữu và chính sách của NHNN nhằm đảm bảo mục tiêu của quá trình tái cơ cấu hệ thống NH cũng như sự ổn định nền tài chính quốc gia. Mặt khác, với giới hạn về tỷ lệ sở hữu của các nhà đầu tư nước ngoài vào các tổ chức tài chính ở Việt Nam với tỷ lệ sở hữu 20% với một đối tác và tối đa 30% được bán cho khối ngoại hiện nay cũng chưa phải là điểm hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài khi đầu tư vốn vào các NHTM Việt Nam. Trong khi các nhà đầu tư nước ngoài với những thế mạnh về vốn, kinh nghiệm quản trị điều hành, phát triển sản phẩm sẽ là những nhân tố tích cực đối với việc cơ cấu lại các NHTM. Trên thực tế hiện nay, các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào các NHTM Việt Nam chủ yếu mới chỉ dừng ở hình thức mua cổ phần, vốn góp theo quy định của pháp luật. Quyết định số 55/2009/QĐ-TTg quy định về tỷ lệ tham gia của nhà đầu tư nước ngoài trên thị trường chứng khoán Việt Nam trong đó nhà đầu tư nước ngoài mua, bán chứng khoán trên thị trường chứng khoán Việt Nam được nắm giữ: Đối với cổ phiếu tối đa 49% tổng số cổ phiếu của công ty cổ phần đại chúng. Đối với chứng chỉ quỹ đầu tư



đại chúng tối đa 49% tổng số chứng chỉ quỹ đầu tư của một quỹ đầu tư chứng khoán đại chúng. Còn đối với các NHTM, Nghị định 01/2014/NĐ-CP quy định việc nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần của các TCTD Việt Nam: Tỷ lệ sở hữu cổ phần của một cá nhân nước ngoài không được vượt quá 5% vốn điều lệ của một TCTD Việt Nam; Tỷ lệ sở hữu cổ phần của một tổ chức nước ngoài không được vượt quá 15% vốn điều lệ của một TCTD Việt Nam trừ trường hợp quy định; Tỷ lệ sở hữu cổ phần của một nhà đầu tư chiến lược nước ngoài không được vượt quá 20% vốn điều lệ của một TCTD Việt Nam; Tỷ lệ sở hữu cổ phần của một nhà đầu tư nước ngoài và người có liên quan của nhà đầu tư nước ngoài đó không được vượt quá 20% vốn điều lệ của một tổ chức tín dụng Việt Nam, tổng mức sở hữu cổ phần của các nhà đầu tư nước ngoài không vượt quá 30% vốn điều lệ của một NHTM Việt Nam. Mặc dù Nghị định này cũng quy định trong trường hợp đặc biệt để thực hiện cơ cấu lại TCTD yếu kém, gặp khó khăn, bảo đảm an toàn hệ thống TCTD, Thủ tướng Chính phủ quyết định tỷ lệ sở hữu cổ phần của một tổ chức nước ngoài, một nhà đầu tư chiến lược nước ngoài, tổng mức sở hữu cổ phần của các nhà đầu tư nước ngoài tại một TCTD cổ phần yếu kém được cơ cấu lại vượt quá giới hạn quy định đối với từng trường hợp cụ thể. Tuy nhiên với các quy định như hiện tại khó có thể hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài gắn bó lâu dài của NHTM Việt Nam.

2.5.2.2. Hoạt động M&A NHTM chủ yếu vẫn mang tính mệnh lệnh hành chính

Hiện nay phương thức mua bán sáp nhập NH phổ biến ở Việt Nam là phương thức thương lượng, trong đó nhiều thương vụ M&A được thực hiện chủ yếu vẫn là theo chỉ định của chính phủ để giải quyết khó khăn cho các NH. Hoạt động M&A NHTM ở Việt Nam diễn ra theo các hướng: các NHTM bị buộc thực hiện sáp nhập mua lại; các NHTM thực hiện M&A để mở rộng thị phần, tăng cường năng lực hoạt động; các tổ chức nước ngoài mua cổ phần của các NHTM trong nước, với hình thức này các NHTM Việt Nam có điều kiện tận dụng lợi thế của các NHTM nước ngoài trong quản trị, vốn, công nghệ nâng cao năng lực cạnh tranh. Trong thời gian vừa qua, các thương vụ M&A giữa các NH lớn thành công như thương vụ SCB hay SHB mục đích chủ đạo vẫn là để giải quyết các khó khăn vướng mắc nội tại từ vấn đề thanh khoản, nợ xấu mà chưa thực sự là thương vụ thực hiện do mục đích tự thân các NH muốn sáp nhập, hợp nhất với nhau để hình thành các tập đoàn tài chính quy



mô lớn nhằm tăng sức mạnh cạnh tranh trên thị trường. Trong khi đó, việc hợp tác, sáp nhập giữa các NH phù hợp sẽ giúp cho các bên có được những lợi ích cộng hưởng từ thế mạnh trong sản phẩm, dịch vụ, nguồn KH, mạng lưới giao dịch, tiết giảm chi phí đầu tư và vận hành, thời gian phát triển mạng lưới…Vì thế, M&A không chỉ là định hướng để làm lành mạnh hóa hệ thống NH, mà còn cần xuất phát từ nhu cầu tự thân của chính các NH. Các NH có thể chủ động tiếp xúc, tìm hiểu, phân tích khả năng hợp tác, sáp nhập, mua bán với các đối tác phù hợp về tầm nhìn, chiến lược, văn hóa tổ chức nhằm hợp tác cùng phát triển, hình thành các tập đoàn tài chính hùng mạnh đủ sức cạnh tranh với các tổ chức tài chính lớn trên thị trường, tuy nhiên việc tìm kiếm đối tác phù hợp để thực hiện M&A đối với các NHTM, nhất là những NHTM quy mô nhỏ ở Việt Nam hiện nay không phải là điều dễ dàng.

2.5.2.3. Thông tin cho hoạt động M&A còn chưa minh bạch

Trong hoạt động M&A nói chung và hoạt động M&A NHTM nói riêng, thông tin về giá cả, thương hiệu, thị phần, bộ máy quản trị rất cần thiết đối với các bên mua và bên bán. Nếu thông tin không được kiểm soát một cách chặt chẽ hoặc không minh bạch thì có thể sẽ gây ra nhiều thiệt hại đối với cả bên mua và bên bán đồng thời ảnh hưởng cả đến những thị trường khác như thị trường chứng khoán, nếu thương vụ M&A diễn ra không thành công thì sẽ ảnh hưởng mạnh mẽ đến hoạt động của các bên có liên quan và quyền lợi của các nhà đầu tư. nhiều thông tin về M&A NHTM trong quá trình thực hiện được báo chí đăng tải, suy đoán, có trường hợp khi thực hiện đàm phán đã bị rò rỉ thông tin gây nhiễu thông tin và gây hoang mang trong tâm lý của một bộ phận không nhỏ KH của NH trong khi đó trách nhiệm pháp lý của các đối tượng cung cấp thông tin sai lệch trên các phương tiện thông tin đại chúng chưa rõ ràng. Điển hình, năm 2013 khi Eximbank công bố nhóm nhà đầu tư mà Eximbank đại diện đã nắm trên 51% vốn cổ phần của Sacombank thị trường đã dự đoán về thương vụ M&A giữa Eximbank và Sacombank được tiến hành dưới phương thức thâu tóm, trên thị trường chứng khoán cũng có những phản ứng với những kỳ vọng về sự kết hợp giữa hai NH này. Nếu thương vụ của Sacombank và Eximbank thành công, quy mô tài sản sau sáp nhập, nếu có, sẽ đạt khoảng 330.000 tỉ đồng, lớn nhất trong khối NHTM CP, bám sát Vietcombank - NH có quy mô tài sản lớn trong khối NHTM nhà nước với 467.000 tỉ đồng. Tuy nhiên sau đó Eximbank



thực hiện M&A với Southern Bank dưới phương thức thương lượng tự nguyện, đây là thương vụ được NHNN ủng hộ, NHNN cử người tham gia quản trị, điều hành NH sau sáp nhập, đảm bảo NH hoạt động an toàn và thực hiện có hiệu quả.

Trong thương vụ giữa Habubank và SHB, NHNN đã nhất trí về mặt chủ trương cho phép Habubank sáp nhập vào SHB, biên bản ghi nhớ về nguyên tắc sáp nhập được hai NH thống nhất từ ngày 8/3/2012 nhưng ngày 13/03/2012 Habubank vẫn phủ nhận thông tin về thương vụ bằng thông báo trên website riêng khiến cho thông tin trên thị trường hỗn loạn, lợi ích của các cổ đông bị ảnh hưởng. Việc rò rỉ thông tin về hoạt động M&A NHTM không đúng thời điểm, đưa thông tin không xác đáng sẽ gây tâm lý hoang mang và lo lắng của KH đang gửi tiền tại NH. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của chính các NHTM tham gia thương vụ M&A, vì hoạt động kinh doanh NH dựa vào niềm tin và uy tín.

Đối với các thương vụ mua bán sáp nhập NHTM, khi thông tin về việc các thương vụ M&A là không chính xác sẽ ảnh hưởng tới uy tín và hoạt động bình thường của các NH và làm nhiễu thông tin trên thị trường chứng khoán và có thể ảnh hưởng quyền lợi của các nhà đầu tư và sự an toàn của hệ thống các NHTM, chính vì vậy sự nhất quán và minh bạch hóa thông tin là vô cùng cần thiết trong bối cảnh tái cấu trúc ngành NH hiện nay.

2.5.2.4. Nảy sinh nhiều vấn đề trong quá trình xử lý hậu M&A NHTM

Trong hệ thống NHTM Việt Nam, các trường hợp M&A có xu hướng gia tăng về mặt số lượng nhưng chất lượng của nhiều thương vụ vẫn là vấn đề cần bàn thêm. Ở một số thương vụ, các phương án xử lý nợ xấu, cải thiện thanh khoản, xử lý xung đột nhân sự, cải thiện dịch vụ, giảm phụ thuộc vào tín dụng, thậm chí phá sản… dường như chưa được chuẩn bị thực sự kỹ lưỡng, lợi nhuận trong ngắn hạn của nhiều NHTM sau khi thực hiện M&A đa phần không tăng, thậm chí còn sụt giảm. Mua bán và sáp nhập NHTM là một công cụ khá đắc lực trong xử lý nợ xấu NHTM, cho phép các NHTM thêm cơ hội mở rộng quy mô, thị phần, mạng lưới chi nhánh, phòng giao dịch, cải thiện năng lực tài chính, chi phí kinh doanh, sức cạnh tranh...Tuy nhiên, thông qua hoạt động M&A NHTM ở Việt Nam trong thời gian qua giảm nhanh tỷ lệ nợ xấu chủ yếu là về mặt kỹ thuật trong khi quy mô nợ xấu không đổi, vì nó được tính trên một tổng dư nợ tín dụng mới sau thương vụ. Có những trường hợp sau khi thực hiện M&A



NHTM tỷ lệ nợ xấu còn tăng vọt, hiệu quả kỹ thuật, hiệu quả quy mô giảm. Đa phần các thương vụ M&A NHTM ở Việt Nam phải mất một khoảng thời gian từ 2-3 năm để giải quyết dứt điểm các vấn đề còn tồn tại hậu sáp nhập, việc tái cấu trúc các NHTM yếu kém do vậy để đạt được kỳ vọng các NHTM ở Việt Nam sau M&A sẽ gặt hái nhiều thành quả, lợi nhuận đi lên, tình hình tài chính ổn định đáp ứng được mong mỏi của cổ đông không hề đơn giản và mất nhiều thời gian và công sức.

2.5.3. Nguyên nhân của những tồn tại

2.5.3.1. Nguyên nhân chủ quan

Thứ nhất: Tính chủ động của các NHTM Việt Nam trong M&A chưa cao Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, song song với việc vươn ra thị trường thế giới, Việt Nam cũng mở cửa thị trường trong nước, trong đó có lĩnh vực tài chính NH. Bối cảnh này buộc các NHTM Việt Nam phải chủ động nhận thức và sẵn sàng tham gia vào quá trình hội nhập và cạnh tranh vì khi đó thị trường trong nước không còn mức bảo hộ cao như trước, các NHTM sẽ phải đối mặt với áp lực cạnh tranh trên phạm vi toàn cầu và cạnh tranh ngay trong nước. Tuy nhiên mức độ chủ động của các NHTM Việt Nam chưa cao. Sự cạnh tranh ngày càng mạnh mẽ trên thị trường là động lực thúc đẩy buộc các NH phải tăng cường hợp tác, đổi mới hoạt động, tăng cường khả năng tích lũy về vốn, công nghệ, và xây dựng những nguồn lực có chất lượng. Hội nhập quốc tế là cơ hội, đồng thời cũng là thách thức buộc các NH Việt Nam tiếp tục tái cơ cấu, nâng cao năng lực cạnh tranh và hiệu quả trong hoạt động nhằm bắt kịp xu thế thế giới. NHNN đã đưa ra các quy định về xếp loại NHTM theo đó trước hết các NHTM tự xếp loại sau đó gửi NHNN đánh giá phân loại các loại A,B,C,D với các chỉ tiêu đánh giá khá toàn diện tuy nhiên quy định không xây dựng chế tài nếu NH xếp loại C, D liên tục thì xử lý như thế nào, có thực hiện sáp nhập với NH khác không cũng là một trong những một trong những nguyên nhân gây nên sự bất cập trong tiến trình M&A NHTM nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các NHTM Việt Nam thời kỳ hội nhập. Các NHTM nhà nước giữ cổ phần chi phối ở Việt Nam hiện nay vẫn đóng vai trò trụ cột đối với nền kinh tế quy mô tài sản chiếm gần 40% quy mô tài sản của toàn hệ thống. Mức độ tham gia của nhà nước vào hệ thống NHTM còn lớn hơn nếu tính cả phần vốn góp của nhà nước, doanh nghiệp nhà nước tại một số NHTM cổ phần. Tỷ trọng của khối NH nước ngoài trong tổng tài sản của khu vực

Xem tất cả 230 trang.

Ngày đăng: 23/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí