Sự Thể Hiện Của Nguyên Tắc Trách Nhiệm Do Lỗi Trong Việc Quy Định Về Các Giai Đoạn Thực Hiện Tội Phạm Và Đồng Phạm.

khả năng đó hoặc cả hai khả năng đó thì Luật xem người đó là người không có năng lực TNHS. Hành vi nguy hiểm cho xã hội mà họ thực hiện không coi là tội phạm, vì vậy TNHS của họ được loại trừ.

Theo quy định tại khoản 2 Điều 13 BLHS thì, “Người phạm tội trong khi có năng lực trách nhiệm hình sự, nhưng đã lâm vào tình trạng quy định tại khoản 1 Điều này trước khi bị kết án, thì cũng được áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh. Sau khi khỏi bệnh, người đó có thể phải chịu trách nhiệm hình sự”. Như vậy, xem xét năng lực TNHS của một người là xem xét tại thời điểm người đó thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, nếu sau khi thực hiện tội phạm rồi họ mới lâm vào tình trạng không có năng lực TNHS thì hành vi nguy hiểm cho xã hội được họ thực hiện vẫn bị coi là tội phạm và họ vẫn phải chịu TNHS.

Năng lực TNHS của con người có mối quan hệ mật thiết với nguyên tắc trách nhiệm do lỗi. Lỗi thuộc về mặt chủ quan của chủ thể, là ý thức chủ quan của chủ thể trước yêu cầu và đòi hỏi của xã hội. Một người khi đã lâm vào tình trạng không có năng lực TNHS thì không có khả năng có ý thức chủ quan vì vậy cũng không có lỗi.

Tuy nhiên, trong LHS hiện hành vẫn tồn tại một trường hợp mà khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, chủ thể đã lâm vào tình trạng không có năng lực TNHS, không có khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi của mình nhưng Nhà nước và xã hội vẫn buộc họ phải chịu TNHS, đó là trường hợp phạm tội trong tình trạng say do dùng rượu hoặc chất kích thích mạnh khác, quy định tại Điều 14 BLHS. Điều luật quy định:

Người phạm tội trong tình trạng say do dùng rượu hoặc chất kích thích mạnh khác, thì vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự”.

Vấn đề này không chỉ LHS Việt Nam mà LHS của nhiều nước trên thế giới cũng quy định như vậy.

Đoạn cuối của Điều 18 BLHS của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa quy định “Người phạm tội do say rượu phải chịu trách nhiệm hình sự” [20, tr.44].

Điều 23 BLHS của Liên bang Nga năm 1996 (đã sửa đổi, bổ sung năm 2010) về trách nhiệm hình sự của người phạm tội trong tình trạng say do dùng rượu hoặc các chất kích thích khác quy định: “Người thực hiện tội phạm trong tình trạng say do dùng rượu, chất ma tuý hoặc các chất kích thích khác thì phải chịu TNHS” [55, tr.58].

Vấn đề trách nhiệm hình sự của người phạm tội trong tình trạng say do dùng rượu hoặc các chất kích thích khác hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau như sau:

Có quan điểm cho rằng, coi hành vi nguy hiểm cho xã hội do người say thực hiện (trường hợp đã say nặng, mất hết khả nhận thức và khả năng điều khiển hành vi) là tội phạm và buộc người đó phải chịu TNHS là đồng nghĩa với việc quy tội khách quan. Vì người say là người mất khả năng nhận thức và mất khả năng nhận thức thì đồng nghĩa với không có lỗi. Tuy nhiên, đây là trường hợp quy tội khách quan hợp pháp, được pháp luật ghi nhận bằng một điều luật cụ thể, do việc ghi nhận này là vì lợi ích chung, vì mục đích răn đe, giáo dục và phòng ngừa đối với hiện tượng lạm dụng rượu, chất kích thích khác để dẫn đến có hành vi gây ra thiệt hại cho xã hội.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 206 trang tài liệu này.

Quan điểm khác lại cho rằng, truy cứu TNHS đối với người phạm tội trong tình trạng say do dùng rượu hoặc các chất kích thích mạnh khác không phải là quy tội khách quan, mà phải coi người đó là người có năng lực TNHS và đã có lỗi khi thực hiện hành vi phạm tội; Vì khi một người đang trong tình trạng say do dùng rượu hoặc chất kích thích mạnh khác thì khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của họ tuy bị hạn chế nhưng họ vẫn chưa mất hẳn sự nhận thức đúng đắn về hoàn cảnh bên ngoài, họ vẫn có khả năng nhận thức và điều khiển được hành vi của mình, do vậy buộc họ phải chịu TNHS về hành vi phạm tội do họ gây ra là có cơ sở.

Theo chúng tôi thì lập luận trên là chưa hoàn toàn triệt để, trong các trường hợp phạm tội trong tình trạng say, thì đối với các trường hợp chưa say hẳn, khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của họ tuy bị hạn chế nhưng vẫn chưa mất hoàn toàn, còn có thể nhận thức và điều khiển hành vi ở một mức độ nhất định thì đương nhiên là họ phải chịu TNHS như các trường hợp bình thường khác. Tuy nhiên, rất nhiều trường hợp chủ thể đã có hành vi phạm tội trong tình trạng say đến mức không còn khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi của mình, thì lý giải thế nào?.

Nguyên tắc trách nhiệm do lỗi của luật hình sự - 14

Một quan điểm giải thích được nhiều người thừa nhận là, người phạm tội trong tình trạng say cũng bị coi là có lỗi, vì khi dùng rượu hoặc chất kính thích mạnh khác họ nhận thức được rằng, uống rượu hoặc dùng chất kích thích mạnh khác có thể làm cho con người rơi vào tình trạng say và có thể dẫn đến thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, biết thế nhưng họ vẫn chấp nhận và tự đặt mình vào tình trạng say đó, vì vậy họ là người có lỗi đối với tình trạng say dẫn đến cũng có lỗi đối với hành vi phạm tội của họ. Thể hiện rõ nhất quan điểm này là, trong Bản cáo cáo về Bộ luật hình sự Việt Nam (Phần chung) trước Quốc hội năm 1983 đã nêu “Tình trạng say rượu hay kích thích mạnh bởi một chất khác cũng làm người ta mất nhận thức, mất khả năng điều khiển hành động của mình. Tuy nhiên người say rượu hay bị kích thích mạnh bởi một chất khác vẫn phải chịu TNHS vì tình trạng say rượu hay bị kích thích mạnh bởi một chất khác là tình trạng mà người đó tự đặt mình vào, tuy biết rằng trong cơn say rượu, cơn bị kích thích mạnh người ta có thể có hành vi phạm tội…” [52, tr.13].

Theo chúng tôi, khi trong cơn say đến mức bản thân người phạm tội mất hẵn khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi của mình, hành vi mà họ thực hiện là hành vi của một người vô ý thức, thực hiện tội phạm với tính chất cũng không cố ý và cũng không vô ý (thiếu mặt chủ quan, thiếu dấu hiệu lỗi). Nhưng luật hình sự vẫn buộc họ phải chịu TNHS đối với hành vi của

mình, vì sao lại như vậy?, điều này được giải thích rằng, LHS đã quy định trước tại Điều 14 BLHS, đã cảnh báo cho mọi người trước khi họ rơi vào tình trạng say, trước khi họ có hành vi phạm tội; ngay trong giai đoạn dùng rượu hoặc dùng chất kích thích mạnh đó thì họ đã nhận thức được rằng nếu bản thân bị rơi vào tình trạng say mà dẫn đến có hành vi phạm tội thì họ vẫn phải chịu TNHS, thậm chí TNHS nặng hơn trường hợp không say, nhưng họ vẫn chấp nhận lựa chọn xử sự tự đặt mình rơi vào tình trạng say. Khi tự đặt mình vào tình trạng say, trước mặt họ có hai cách xử sự được lựa chọn, (1) lựa chọn cách xử sự là không đặt mình vào tình trạng say, và (2) lựa chọn cách xử sự là tự đặt mình vào tình trạng say (lúc này họ phải nhận thức được là có thể dẫn đến có hành vi phạm tội). Theo lập luận này, thì rõ ràng là họ đã có lỗi với tình trạng say của mình, khi họ đã nhận thức được rằng, nếu trong tình trạng say thì có thể có hành vi phạm tội do tình trạng say đó mà họ vẫn thực hiện thì họ đã có lỗi đối với hành vi phạm tội mà họ gây ra ngay khi đặt mình vào tình trạng say. Như vậy, luật pháp trừng trị, răn đe và giáo dục chủ thể là giáo dục ngay từ đầu, từ lúc chủ thể đã cố ý đặt mình vào tình trạng say, chứ không chỉ giáo dục đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội mà họ thực hiện. Nếu chọn tại thời điểm khi uống rượu hoặc dùng chất kích thích mạnh khác để dẫn đến tự đặt mình vào tình trạng say để đánh giá về mặt chủ quan của chủ thể thì phải khẳng định chủ thể đã có lỗi đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội mà mình thực hiện ngay tại thời điểm tự đặt mình vào tình trạng say, và vì vậy cũng khẳng định quy trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội trong tình trạng say do dùng rượu hoặc chất kích thích mạnh khác là không phải quy tội khách quan.

Ví dụ vụ án sau:

Hồ Văn Khoong, ở Hướng Hiệp, Đakrông, Quảng Trị. Năm 2004 phạm tội hiếp dâm bị TAND huyện Đakrông xử phạt 24 tháng tù, mới ra tù lại phạm tội hiếp dâm tiếp, mà nạn nhân là bà Hồ Thị Keo (62 tuổi), trú tại xã Húc,

huyện Hướng Hóa, Quảng Trị. Tại phiên tòa, khi hỏi bị cáo vì sao lại nhiều lần phạm tội hiếp dâm, mà đến cả người già bị cáo vẫn xâm phạm. Bị cáo trả lời là “do con ma rượu ở trong người, mỗi khi uống rượu say là bị cáo không thể kiềm chế hành vi của mình, cứ đi tìm phụ nữ, bất kể già hay trẻ để hiếp dâm. Khi nào bỏ được rượu may ra bị cáo không tái phạm tội hiếp dâm nữa”.

Trường hợp này chính bị cáo vẫn thừa nhận lỗi của mình mà lỗi ngay từ khi say rượu, bình thường bị cáo rất hiền từ, nhưng khi uống rượu say là bị cáo không điều khiển được hành vi của mình. Rõ ràng, không thể coi bị cáo là người không có năng lực TNHS được (không có khả năng điều khiển hành vi khi phạm tội), mà bị cáo đã có lỗi ngay từ khi say rượu, bị cáo đã nhận thức được nếu say rượu sẽ phạm tội hiếp dâm như lần trước nhưng vẫn uống say là chính bị cáo đã tự lựa chọn cách xử sự dẫn đến có hành vi phạm tội. Luật quy định buộc chủ thể phải chịu TNHS đối với hành vi phạm tội trong tình trạng say là hết sức cần thiết, đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng ngừa tội phạm và giáo dục được ý thức con người với tệ nạn say do dùng rượu hoặc dùng chất kích thích mạnh khác, biểu hiện thái độ nghiêm khắc của Nhà nước và xã hội đối với tệ nạn này hoặc sự lạm dụng tình trạng say để thực hiện tội phạm.

Việc quy định vấn đề TNHS đối với người phạm tội trong tình trạng say do dùng rượu hoặc các chất kích thích mạnh khác còn thể hiện rõ nét chính sách hình sự của Nhà nước ta, coi đây là một trường hợp ngoại lệ đặc biệt nhằm góp phần tích cực cho công tác đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm.

Tuy nhiên, không phải mọi trường hợp phạm tội trong tình trạng say đều phải chịu TNHS mà phải xem xét lỗi của họ khi lâm vào tình trạng say. Nếu một người không có lỗi đối với tình trạng say của mình (mất khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi) thì sẽ được coi là không có lỗi đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội mà họ thực hiện, do vậy họ không phải chịu TNHS. Ví dụ: Một người vì bị người khác đầu độc bằng rượu hoặc chất kích thích mạnh khác, có nghĩa là không phải tự họ lựa chọn cách xử sự đặt mình vào tình trạng say mà do người khác hãm hại, sau khi bị say họ mất hết khả năng

nhận thức và khả năng điều khiển hành vi của mình và đã có hành vi phạm tội thì họ không phải chịu TNHS đối với hậu quả mà họ gây ra vì họ không có lỗi đối với tình trạng say đó, nên cũng không có lỗi đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội mà họ thực hiện. Điều này vẫn chưa được ghi nhận trong BLHS hiện hành.

2.1.6. Sự thể hiện của nguyên tắc trách nhiệm do lỗi trong việc quy định về các giai đoạn thực hiện tội phạm và đồng phạm.

2.1.6.1. Sự thể hiện của nguyên tắc trách nhiệm do lỗi trong việc quy định về các giai đoạn thực hiện tội phạm.

Tội phạm là một hiện tượng xã hội, diễn ra theo một quá trình nhất định, có bắt đầu và có kết thúc. Đặc biệt là đối với các loại tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp (cố ý có dự mưu), người phạm tội có sự suy nghĩ, cân nhắc trước khi thực hiện tội phạm, luôn mong muốn thực hiện được tội phạm để đạt được mục đích của mình. Ban đầu, người phạm tội xuất hiện ý định phạm tội, tiếp đến là chuẩn bị phạm tội, sau đó là thực hiện tội phạm.

Sự xuất hiện ý định phạm tội trong ý thức chủ thể có nguyên nhân từ sự tác động của các yếu tố khách quan và chủ quan, phát sinh những động cơ thúc đẩy ý chí thực hiện hành vi phạm tội nhằm đạt được mục đích của mình. Tức là, chủ thể đã hình thành ý thức đi ngược lại lợi ích và đòi hỏi của xã hội, có ý định xâm hại đến các khách thể bị LHS cấm nhằm thỏa mãn mục đích của mình. Ý định phạm tội chính là cơ sở tâm lý dẫn đến việc thực hiện tội phạm của chủ thể ở các giai đoạn tiếp theo. Nếu chỉ dừng lại ở ý định phạm tội thì chưa có sự nguy hiểm cho xã hội, khi nào ý tưởng đó được biểu hiện ra bên ngoài bằng hành vi khách quan thì khi đó mới xuất hiện sự nguy hiểm cho xã hội, và đó cũng chính là một điều kiện của TNHS. Luật hình sự Việt Nam không “truy nã tư tưởng”, người có tư tưởng phạm tội không bị coi là tội phạm và dĩ nhiên là không phải chịu TNHS.

Sau khi hình thành tư tưởng phạm tội, chủ thể có những hoạt động kế tiếp, đó là chuẩn bị phạm tội, có bước tiếp theo là chuẩn bị các điều kiện về

vật chất và tinh thần cần thiết cho việc thực hiện tội phạm theo như mong muốn. Khi đã chuẩn bị xong các bước cần thiết thì chủ thể tiến hành thực hiện ý định để đạt được mục đích của mình.

Tuy nhiên, không phải khi nào hành vi do chủ thể thực hiện đều đạt được mục đích như mong muốn. Có thể do những nguyên nhân khách quan khác nhau đã cản trở hoặc ngăn chặn hành vi, ngăn chặn quá trình phạm tội của họ. Sự cản trở hoặc ngăn cản đó có thể xảy ra ngay ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội và cũng có thể diễn ra ngay ở giai đoạn chủ thể đã bắt tay vào việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội thuộc mặt khách quan của tội phạm. Sự ngăn cản này đã làm cho chủ thể không thực hiện được tội phạm (ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội) hoặc không đạt được mục đích của tội phạm (ở giai đoạn phạm tội chưa đạt). Nếu không có yếu tố khách quan nào ngăn cản, chủ thể đã thực hiện xong các hành vi được coi là cần thiết để đạt được mục đích của mình, và hành vi đó đã thỏa mãn các yếu tố cấu thành tội phạm thì ở giai đoạn này tội phạm đã hoàn thành. Khoa học luật hình sự gọi quá trình diễn biến này là các giai đoạn thực hiện tội phạm.

Để làm cơ sở đánh giá mức độ thực hiện tội phạm và xác định phạm vi TNHS của người phạm tội ở từng giai đoạn thực hiện tội phạm khác nhau, LHS Việt Nam chia ra ba giai đoạn thực hiện tội phạm tương ứng trong quá trình thực hiện tội phạm là: Chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và tội phạm hoàn thành.

Xét các giai đoạn thực hiện tội phạm dựa trên cơ sở lỗi hình sự cho thấy, các giai đoạn thực hiện tội phạm chỉ đặt ra đối với tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Đối với các tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý gián tiếp hoặc lỗi vô ý thì không có giai đoạn chuẩn bị phạm tội hay phạm tội chưa đạt. Vì ở các tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý gián tiếp hay lỗi vô ý, người phạm tội không mong muốn hậu quả của tội phạm xảy ra, không mong

muốn hành vi của mình sẽ trở thành hành vi phạm tội, gây ra thiệt hại hoặc đe dọa gây ra thiệt hại đáng kể cho xã hội.

Đối với các tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý gián tiếp, mặc dù chủ thể đã nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, nhận thức được hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, tuy không mong muốn nhưng lại có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra. Như vậy, chủ thể đã không có ý thức mong muốn hậu quả xảy ra thì không thể có các giai đoạn chuẩn bị phạm tội hay phạm tội chưa đạt. Chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt cũng hình thành từ ý thức chủ quan, xuất phát từ ý chí muốn đạt đến kết quả cuối cùng của tội phạm, tuy nhiên khi chủ thể đã không mong muốn hậu quả xảy ra thì dĩ nhiên sẽ không hình thành ý chí đó được. Vì vậy có thể khẳng định, không có các giai đoạn thực hiện tội phạm đối với các tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý gián tiếp.

Đối với các tội phạm được thực hiện với lỗi vô ý, người phạm tội tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được (vô ý do quá tự tin) hoặc người phạm tội không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó (vô ý do cẩu thả). Trong các trường hợp trên, người phạm tội không đặt ra mục đích phạm tội, không có ý thức lựa chọn xử sự phạm tội, lựa chọn xử sự mà biết trước chắc chắn là sẽ gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, mà chủ thể chỉ vì quá tự tin hoặc do cẩu thả nên đã để xảy ra hậu quả. Mặt khác, các tội phạm xảy ra với lỗi vô ý thì hành vi chỉ trở thành là hành vi phạm tội khi đã gây ra hậu quả nhất định cho xã hội (hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng), trừ các tội phạm quy định tại khoản 4 Điều 202, khoản 4 Điều 227, khoản 4 Điều 234, khoản 4 Điều 240 BLHS…; Còn khi chưa xảy ra hậu quả nguy hại cho xã hội thì hành vi đó

Xem tất cả 206 trang.

Ngày đăng: 12/01/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí