Định Hướng Phát Triển Hệ Thống Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam Đến Năm 2025



thời gian ngắn, thương vụ được hỗ trợ từ NH nhà nước và BIDV nhưng vì nhiều KH gửi số lượng tiền gửi lớn tại các NH này nên họ băn khoăn khi các NH hợp nhất thành một NH mới thì số tiền gửi của họ sẽ được giải quyết ra sao, ai sẽ chịu trách nhiệm chi trả. Họ cũng lo lắng về định mức tối đa được chi trả từ bảo hiểm tiền gửi quá thấp so với số tiền họ thực gửi ở NH sẽ không đảm bảo quyền lợi của KH, chính vì vậy nhiều người đã đến rút tiền trước hạn khi có thông tin về thương vụ M&A.

Rõ ràng, với chính sách BHTG như hiện nay, nếu hạn mức chi trả được điều chỉnh một cách phù hợp hơn, chính sách BHTG được lan tỏa một cách cụ thể hơn tới người dân sẽ thực sự là một yếu tố thuận lợi hơn cho các NH trong quá trình thực hiện các thương vụ mua bán sáp nhập NH. Các NH Việt Nam đang trong quá trình tái cơ cấu, NHNN tích cực xử lý các NH hoạt động yếu kém, trong đó có trường hợp chỉ định sáp nhập với NH khác, có trường hợp NH nhà nước mua lại thì BHTG là một mắt xích quan trọng trong quá trình tái cơ cấu các TCTD, giúp hệ thống tài chính ngân hàng Việt Nam hoạt động an toàn, hiệu quả.

Thứ tư: Hoạt động thanh tra giám sát ngân hàng vẫn còn hạn chế

Quá trình phát triển mạnh mẽ của các NHTM luôn đồng hành cùng với các loại rùi ro trong lĩnh vực NH, rủi ro về tác nghiệp và công nghệ trong điều kiện hệ thống quản trị, điều hành kinh doanh của các TCTD còn những yếu kém đang là mối quan tâm hàng đầu của các nhà quản lý, việc hoàn thiện và nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra, giám sát của NHNN đối với hệ thống các TCTD là điều vô cùng cần thiết. Thanh tra, giám sát NH thật sự là trụ cột để bảo đảm NHNN thực hiện có hiệu quả chức năng quản lý nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động NH, thực hiện mục tiêu an toàn hệ thống các TCTD, tạo môi trường thuận lợi cho ổn định vĩ mô và tăng trưởng kinh tế.

Trong quá trình tái cơ cấu hệ thống NH Việt Nam nói chung và hoạt động M&A NHTM nói riêng, cơ quan thanh tra giám sát NH có vai trò quan trọng trong việc định hướng, giám sát và đưa ra những cảnh báo sớm. Tuy nhiên, thời gian qua, khả năng phát hiện và cảnh báo sớm, phòng ngừa, ngăn chặn rủi ro trong hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng còn hạn chế. Hiện nay, đối tượng của hoạt động thanh tra, giám sát là tổ chức và hoạt động của các TCTD biến động từng ngày, thì hoạt động thanh tra, giám sát của NHNN cũng cần đổi mới kịp thời và đúng hướng nhằm



đạt được mục tiêu đảm bảo sự ổn định, an toàn của hệ thống TCTD tại Việt Nam. Thứ năm: Trung tâm thông tin tín dụng hoạt động chưa thực sự hiệu quả Để có thể tồn tại và cạnh tranh được ngay trên thị trường nội địa, các NHTM

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 230 trang tài liệu này.

trong nước đã không ngừng gia tăng chất lượng sản phẩm, dịch vụ, cải tiến công nghệ kỹ thuật. Đồng thời, nâng cao năng lực quản trị điều hành, trong đó năng lực quản trị rủi ro được xem là một yếu tố quan trọng trong những năm gần đây. Trung tâm thông tin tín dụng (CIC) của NHNN với đặc trưng tập trung, thống nhất, kết cấu hợp lý, có sự tổ chức chặt chẽ với các dữ liệu thông tin tín dụng về KH và các thay đổi về dư nợ được cập nhật trực tiếp từ các TCTD và thường được thực hiện ngay trong ngày làm việc, do đó thông tin do CIC luôn bảo đảm chất lượng và tính kịp thời. Cùng với tiến trình hiện đại hóa NHTM nói riêng và hệ thống tài chính nói chung tại Việt Nam, thông tin tín dụng đã trở thành một kênh hỗ trợ tin cậy và tích cực đối với hoạt động của các TCTD. Tuy nhiên trong thời gian qua trung tâm thông tin tín dụng của NHNN hoạt động chưa thực sự hiệu quả. Việc phối hợp với các bộ ngành như cơ quan thuế, cơ quan cấp phép doanh nghiệp, cơ quan tư pháp chưa tốt nên dữ liệu đầu vào chưa đầy đủ. Việc thu thập thông tin chưa đầy đủ dẫn đến khó khăn trong việc đưa ra những thông tin cảnh báo, thông tin về xử lý nợ xấu.

Lựa chọn con đường M&A được xem là một trong những con đường tốt nhất hiện nay để giải quyết những khó khăn của nhiều NH. Điều này cũng phù hợp với chủ trương của NHNN trong việc tái cấu trúc hệ thống NH. Từ những quy định tiêu chí hoạt động và định hướng của NHNN, làn sóng sáp nhập giữa các NHTM đã, đang và sẽ tiếp tục diễn ra phù hợp với quy mô thị trường và tăng khả năng cạnh tranh của mỗi NHTM. Nhu cầu tất yếu ấy của thị trường cần được các NHTM cân nhắc thận trọng cùng với quá trình suy xét từ thực tiễn của các NH đã hoàn thành M&A để đạt mục tiêu chung là lành mạnh thị trường tài chính, tiến tới thiết lập một hệ thống tài chính khỏe mạnh đóng vai trò trụ cột đối với nền kinh tế.

Hoạt động mua bán và sáp nhập ngân hàng thương mại tại Việt Nam - 19



KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

Mua bán sáp nhập NH đóng vai trò hữu ích trong hoạt động của các NH thương mại nói chung và trong quá trình tái cơ cấu hệ thống NH ở Việt Nam nói riêng. Những thương vụ M&A được thực hiện một cách đúng đắn sẽ mang lại lợi ích cho các bên tham gia, có tác động tích cực đối với nền kinh tế.

Trong chương 2 của luận án, NCS đã phân tích một cách khái quát về tình hình hoạt động của các NHTM Việt Nam, xem xét đánh giá thực trạng hoạt động mua bán và sáp nhập NHTM tại Việt Nam 2011-2016 với những vấn đề cơ bản về vốn, tài sản, tình hình thanh khoản, vấn đề nợ xấu cũng như tầm nhìn viễn cảnh, định hướng của hệ thống NHTM Việt Nam thời gian tới. Những nội dung này là cơ sở để NCS xem xét thực trạng về hoạt động mua bán và sáp nhập NHTM ở Việt Nam Trên cơ sở đánh giá đặc trưng hoạt động mua bán và sáp nhập NHTM trong từng giai đoạn, xem xét những thương vụ điển hình, tác giả đã đánh giá những ưu điểm và những vấn đề còn tồn tại trong hoạt động mua bán và sáp nhập NHTM tại Việt Nam, từ đó rút ra những giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động mua bán và sáp nhập NHTM tại Việt Nam ở chương 3.



CHƯƠNG 3

GIẢI PHÁP VỀ HOẠT ĐỘNG MUA BÁN VÀ SÁP NHẬP NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM

3.1. ĐỊNH HƯỚNG VỀ HOẠT ĐỘNG MUA BÁN VÀ SÁP NHẬP NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM

3.1.1. Định hướng phát triển hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam đến năm 2025

Sau những thăng trầm của nền kinh tế, vấn đề các NH có thể tồn tại hay không trong môi trường cạnh tranh khắc nghiệt đã trở thành mối quan tâm lớn của các NHTM. Trải qua quá trình tái cấu trúc, hệ thống NH Việt Nam mặc dù đã đạt được những kết quả nhất định, song trong giai đoạn phát triển tới, cần phải tập trung phấn đấu nâng cao năng lực tài chính và năng lực hoạt động, hướng tới mục tiêu phát triển bền vững bắt kịp tốc độ phát triển của NH một số nước phát triển trong khu vực. Khi quá trình hội nhập ngày càng trở nên sâu rộng, cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt hơn tác động không chỉ tới văn hóa quản trị của các NHTM mà còn là áp lực buộc các NHTM phải có sự bứt phá về năng lực tài chính. Mặt khác hệ thống NH sau một chặng đường dài tái cấu trúc, nhiều NHTM trải qua phương án hợp nhất, sáp nhập, sẽ không tránh khỏi sự dịch chuyển nhân sự, những vấn đề về vốn, xử lý nợ xấu…cần giải quyết. Yêu cầu phát triển bền vững đòi hỏi việc tập trung xây dựng chiến lược, kế hoạch, chính sách và chương trình hành động quốc gia để các nhu cầu xã hội, môi trường và kinh tế cần được tổng hoà và đáp ứng một cách cân đối với nhau. Nền kinh tế Việt Nam đã trải qua thời kỳ tăng trưởng nóng và dàn trải đã tác động không nhỏ tới sự phát triển bền vững của nền kinh tế. Hơn thế, hệ thống NHTM được coi là huyết mạch của nền kinh tế, xây dựng lộ trình phát triển bền vững đối với các NHTM thời kỳ hậu mua bán và sáp nhập được coi là yêu cầu tất yếu nhằm đảm bảo sự an toàn, ổn định của hệ thống các TCTD.

Trong thời gian tới những mục tiêu phát triển các TCTD định hướng chiến lược của hệ thống NHTM Việt Nam đó là:

Cải cách căn bản, triệt để và phát triển toàn diện hệ thống các TCTD theo hướng hiện đại, hoạt động đa năng để đạt trình độ phát triển trung bình tiên tiến trong khu vực ASEAN với cấu trúc đa dạng về sở hữu, về loại hình TCTD, có quy mô hoạt



động lớn hơn, tài chính lành mạnh, đồng thời tạo nền tảng xây dựng được hệ thống các TCTD hiện đại, đạt trình độ tiên tiến trong khu vực Châu Á, đáp ứng đầy đủ các chuẩn mực quốc tế về hoạt động NH, có khả năng cạnh tranh với các NH trong khu vực và trên thế giới. Bảo đảm các TCTD, kể cả các TCTD nhà nước hoạt động kinh doanh theo nguyên tắc thị trường và vì mục tiêu chủ yếu là lợi nhuận. Phát triển hệ thống TCTD hoạt động an toàn và hiệu quả vững chắc dựa trên cơ sở công nghệ và trình độ quản lý tiên tiến, áp dụng thông lệ, chuẩn mực quốc tế về hoạt động của các NHTM. Phát triển các TCTD phi NH để góp phần phát triển hệ thống tài chính đa dạng và cân bằng hơn. Phát triển và đa dạng hóa các sản phẩm, dịch vụ NH, đặc biệt là huy động vốn, cấp tín dụng, thanh toán với chất lượng cao và màng lưới phân phối phát triển hợp lý nhằm cung ứng đầy đủ, kịp thời, thuận tiện các dịch vụ, tiện ích NH cho nền kinh tế trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Hình thành thị trường dịch vụ NH, đặc biệt là thị trường tín dụng cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng giữa các loại hình TCTD, tạo cơ hội cho mọi tổ chức, cá nhân có nhu cầu hợp pháp, đủ khả năng và điều kiện được tiếp cận một cách thuận lợi các dịch vụ NH. Ngăn chặn và hạn chế mọi tiêu cực trong hoạt động tín dụng.

Tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại hệ thống NH. Tách bạch tín dụng chính sách và tín dụng thương mại trên cơ sở phân biệt chức năng cho vay của NH chính sách với chức năng kinh doanh tiền tệ của NHTM. Bảo đảm quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của TCTD trong kinh doanh. Tạo điều kiện cho các TCTD trong nước nâng cao năng lực quản lý, trình độ nghiệp vụ và khả năng cạnh tranh. Bảo đảm quyền kinh doanh của các NH và các tổ chức tài chính nước ngoài theo các cam kết của Việt Nam với quốc tế. Gắn cải cách NH với cải cách doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhà nước. Tiếp tục củng cố, lành mạnh hoá và phát triển các NH cổ phần; ngăn ngừa và xử lý kịp thời, không để xảy ra đổ vỡ NH ngoài sự kiểm soát của NHNN đối với các TCTD yếu kém.[4]

Những nhân tố chi phối xu hướng phát triển khu vực NH:

- Trong bối cảnh toàn cầu hóa và tự do hóa ngày càng gia tăng, những bất ổn khó lường của thị trường toàn cầu ngày càng mạnh mẽ hơn và tiến bộ công nghệ đang có những tác động mạnh đến sự phát triển hệ thống tài chính trong nước và toàn cầu, cách tiếp cận của các định chế tài chính. Để phù hợp với tình hình này, cần sự



năng động của hệ thống tài chính, đặc biệt là các định chế tài chính trong nước phải được vững mạnh và hiệu quả.

- Kinh tế tri thức cùng với những tiến bộ về công nghệ đã xác định lại các quy tắc của cuộc chơi và sự chuyển đổi môi trường mà các định chế tài chính hoạt động. Trong một môi trường mới như vậy, khả năng của các định chế tài chính trong việc cung cấp sản phẩm và dịch vụ một cách hiệu quả nhất sẽ là chìa khóa xác định chức năng và phạm vi hoạt động của định chế tài chính. Theo đó, khả năng thu được những lợi ích trong môi trường cạnh tranh mới phụ thuộc rất nhiều vào khả năng và năng lực của các định chế tài chính trong việc nhanh chóng thích nghi với môi trường mới và nắm bắt kịp thời những cơ hội mới.

- Tốc độ phát triển kinh tế nhanh chóng và chuyển đổi môi trường đã tạo ra nhu cầu mới cũng như cơ hội cho các doanh nghiệp, điều này đòi hỏi những dịch vụ tài chính hiệu quả. Đồng thời, sự vững mạnh của các doanh nghiệp, cá nhân và hộ gia đình sẽ là nhân tố chính để duy trì sự ổn định của hệ thống tài chính.

- Khủng hoảng tài chính toàn cầu đặt ra vấn đề phải tái cơ cấu hệ thống tài chính của từng quốc gia cũng như toàn cầu, theo một xu hướng tăng cường khả năng giám sát và cảnh báo sớm nhằm ngăn ngừa những bất ổn có thể xảy ra.

Như vậy, có thể nói, nhìn về tương lai, sự phát triển hệ thống tài chính thế giới là theo xu hướng phát triển ổn định, bền vững, hiệu quả sẽ đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế. Đối với hệ tài chính Việt Nam nói chung và khu vực NH nói riêng, sự phát triển cũng sẽ bị chi phối bởi xu hướng trên, vì:

- Hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi Việt Nam phải chấp nhận luật chơi chung với khu vực và thế giới. Điều này làm gia tăng tính đa dạng trong cơ cấu kinh tế và tính phức tạp trong các hoạt động tài chính, tiền tệ.

- Kinh tế Việt Nam hướng tới một nước công nghiệp phát triển theo hướng hiện đại, có thu nhập trung bình (sau đó đến giữa thế kỷ là nước công nghiệp phát triển, có thu nhập cao), và vai trò của khu vực NH đối với việc thực hiện mục tiêu trên sẽ chi phối xu hướng phát triển hệ thống NH. [55]

3.1.2. Những cơ hội và thách thức đối với các ngân hàng thương mại tại Việt Nam trong thời gian tới.

3.1.2.1. Những cơ hội



Thứ nhất: Hội nhập kinh tế quốc tế tạo động lực thúc đẩy công cuộc đổi mới và cải cách hệ thống NHTM VN, nâng cao năng lực quản lý nhà nước trong lĩnh vực NH, tăng cường khả năng tổng hợp, hệ thống tư duy xây dựng các văn bản pháp luật trong hệ thống NH, đáp ứng yêu cầu hội nhập và thực hiện cam kết với hội nhập quốc tế.

Thứ hai: Hội nhập kinh tế quốc tế giúp các NHTM Việt Nam học hỏi được nhiều kinh nghiệm trong hoạt động NH của các NH nước ngoài. Các NH trong nước sẽ phải nâng cao trình độ quản lý, cải thiện chất lượng dịch vụ để tăng cường độ tin cậy đối với KH, ngoài ra, các NHTM Việt Nam còn có điều kiện tranh thủ vốn, công nghệ và đào tạo đội ngũ cán bộ, phát huy lợi thế so sánh của mình để theo kịp yêu cầu cạnh tranh quốc tế và mở rộng thị trường ra nước ngoài. Từ đó, nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ.

Thứ ba: Hội nhập quốc tế tạo động lực thúc đẩy cải cách ngành NH Việt Nam, thị trường tài chính sẽ phát triển nhanh hơn tạo điều kiện cho các NH phát triển các loại hình dịch vụ mới nhu cầu về dịch vụ NH, đặc biệt là dịch vụ NH quốc tế ngày càng tăng. Do các doanh nghiệp Việt Nam có nhiều cơ hội tiếp cận với thị trường hàng hóa quốc tế, các nhà đầu tư nước ngoài cũng có nhiều cơ hội thâm nhập vào thị trường Việt Nam nên các luồng vốn chu chuyển qua hệ thống tài chính - NH sẽ ngày càng tăng.

Thứ tư: Mở ra cơ hội trao đổi, hợp tác quốc tế giữa các NHTM trong hoạt động kinh doanh tiền tệ, đề ra giải pháp tăng cường giám sát và phòng ngừa rủi ro, từ đó nâng cao uy tín và vị thế của hệ thống NHTM VN trong các giao dịch quốc tế. Từ đó, có điều kiện tiếp cận với các nhà đầu tư nước ngoài để hợp tác kinh doanh, tăng nguồn vốn cũng như doanh thu hoạt động.

Thứ năm: quá trình hội nhập sẽ tạo cơ hội để hình thành những NH có quy mô lớn, tài chính lành mạnh và kinh doanh hiệu quả. Áp lực cạnh tranh buộc các NHTM Việt Nam phải chuyên môn hoá sâu hơn về nghiệp vụ NH, quản trị NH, quản trị tài sản nợ, quản trị tài sản có, quản trị rủi ro, cải thiện chất lượng TD, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn, dịch vụ NH và phát triển các dịch vụ NH mới, khả năng cạnh tranh của các NH sẽ được nâng cao bởi cơ hội liên kết, hợp tác với đối tác nước ngoài trong chuyển giao công nghệ, phát triển sản phẩm và khai thác thị trường. Sự tham gia điều hành, quản trị của các nhà đầu tư nước ngoài tại các NH



trong nước là yếu tố quan trọng để cải thiện năng lực quản trị kinh doanh ở các NH trong nước.

Thứ sáu: các NH trong nước có khả năng huy động các nguồn vốn từ thị trường tài chính quốc tế và sử dụng vốn có hiệu quả hơn để giảm thiểu rủi ro và các chi phí cơ hội. Quan hệ đại lý quốc tế của NH trong nước có điều kiện phát triển rộng để tạo điều kiện cho các hoạt động thanh toán quốc tế, tài trợ thương mại phát triển. Mặt khác, hội nhập quốc tế là động lực thúc đẩy các NHTM trong nước tự cải cách, tăng cường năng lực cạnh tranh để tạo thế phát triển bền vững. [55]

3.1.2.2. Những thách thức

Việc tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, nhất là trong lĩnh vực tài chính – NH luôn đặt các nước đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng vào một mối lo chung, đó là do sự yếu kém của hệ thống NH trong nước. Gia nhập vào WTO, hệ thống NH Việt Nam phải đối mặt với những thách thức không nhỏ:

Thứ nhất: Việc mở cửa thị trường tài chính nội địa sẽ làm tăng rủi ro thị trường do các tác động từ bên ngoài, từ thị trường tài chính khu vực và thế giới. Hội nhập với thị trường tài chính thế giới, hệ thống TCNH Việt Nam sẽ nhạy cảm hơn với những biến động nào trên thị trường. Trong quá trình hội nhập, hệ thống NH VN cũng chịu tác động mạnh của thị trường tài chính thế giới, nhất là về tỷ giá, lãi suất, dự trữ ngoại tệ, trong khi phải thực hiện đồng thời nhiều nghĩa vụ và cam kết quốc tế.

Thứ hai: Khả năng sinh lời của hầu hết các NHTM Việt Nam còn thấp so với các NH trong khu vực và trên thế giới, do đó hạn chế khả năng thiết lập các quỹ dự phòng rủi ro và quỹ tăng vốn tự có.

Thứ ba: Các NHTM Việt Nam sẽ phải đối mặt với áp lực cạnh tranh rất lớn từ phía các NH nước ngoài. So với các NHTM Việt Nam, các NH nước ngoài có năng lực tài chính tốt hơn, công nghệ, trình độ quản lý cao hơn, hệ thống sản phẩm đa dạng và có chất lượng cao hơn, có thể đáp ứng những nhu cầu đa dạng của KH. Như vậy, muốn tồn tại và phát triển, các NHTM Việt Nam sẽ phải nỗ lực rất nhiều để tự nâng cao năng lực cạnh tranh. Do khả năng cạnh tranh thấp, việc mở cửa thị trường tài chính sẽ làm tăng số lượng các NHTM có tiềm lực mạnh về tài chính, công nghệ, trình độ quản lý làm cho áp lực cạnh tranh tăng dần. [55]

3.1.2.3. Điểm mạnh

Xem tất cả 230 trang.

Ngày đăng: 23/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí