hợp với quan điểm của paper gốc của Jacob A. Bikker và Tobias M. Vervlietnăm 2017, nghiên cứu tại khu vực Hoa Kỳ.
Nó được tìm thấy rằng một điểm phần trăm giảm lãi suất ngắn hạn có liên quan đến một điểm cơ bản của PCL thấp hơn 2,78. Điều này ngụ ý rằng các ngân hàng dự kiến tổn thất cho vay thấp hơn trong môi trường lãi suất thấp, có khả năng vì xác suất mặc định thấp hơn đối với các khoản nợ tồn đọng. Hơn nữa, mối quan hệ này được tìm thấy là lõm.
Phát hiện rằng các ngân hàng chỉ có một đệm nhỏ chống lại tổn thất tín dụng trong môi trường lãi suất thấp có thể gây nguy hiểm cho sự ổn định của ngân hàng nếu tín dụng thua lỗ là cao hơn mong đợi. Kết hợp với các tiêu chuẩn cho vay thấp hơn và rủi ro cao hơn từ các khoản vay mới thông qua các kênh rủi ro (xem Borio & Zhu, 2008). Đây có thể là một sự phát triển đáng lo ngại, được tìm thấy bỏi Maddaloni và Peydró (2011), sử dụng dữ liệu của khu vực Euro và các tiêu chuẩn cho vay của ngân hàng Hoa Kỳ, bài nghiên cứu đưa ra kết luận rằng không tìm thấy bằng chứng mạnh mẽ rằng lãi suất dài hạn thấp làm giảm tiêu chuẩn cho vay. Khi so sánh tác động của lãi suất ngắn hạn và dài hạn, phân tích cho thấy rằng tác động của lãi suất ngắn hạn thấp có ý nghĩa thống kê hơn so với ảnh hưởng của tỷ lệ dài hạn.
Tác giả phân tích đề xuất của Genay và Podjasek (2014) rằng các ngân hàng có thể duy trì lợi nhuận tổng thể của họ thông qua mức dự phòng thấp hơn. Quy định thể hiện mối liên hệ giữa rủi ro tín dụng và vốn cho trích lập dự phòng của các khoản vay dự kiến trực tiếp làm giảm lợi nhuận trước khi chúng được phân bổ vào vốn và dự trữ (xem Bikker & Hu, 2002). Tương tự, quy mô cho vay tích cực ảnh hưởng đến việc cung cấp như một danh mục cho vay lớn hơn với rủi ro tín dụng cao hơn cần một mức trích lập dự phòng cao hơn. Vì vậy, các ngân hàng chấp nhận rủi ro thấp hơn trong hoạt động cho vay của họ, thông qua một bộ đệm lớn hơn cho các khoản lỗ tín dụng, cũng có xu hướng có tài sản ít rủi ro hơn.
Năm 2015, Cụ thể ngày 28/8/2015, NHNN ban hành Thông tư số 14/2015/TT- NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của TT 19/2013/TT-NHNN về việc mua, bán và xử lý nợ xấu của Công ty VAMC. Thông tư này cụ thể hóa những thay đổi trong Nghị định 34/2015/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 31/3/2015. Và chính thức quy định việc VAMC mua lại nợ xấu theo giá thị trường bằng phát hành trái phiếu trực tiếp cho tổ chức tín dụng bán nợ xấu, bên cạnh trái phiếu đặc biệt với cơ chế đã có. NHNN tính tổng nợ xấu của các NHTM trên địa bàn TP. HCM bán cho VAWC là 21.400 tỷ đồng. Do đó, các ngân hàng phải tăng dự phòng rủi ro tín dụng cho các khoản nợ xấu đã bán cho VAWC từ 10-20%/ năm để giảm thiểu rủi ro. Cùng với việc giảm lãi suất cho vay và đòi hỏi việc trích lập dự phòng rủi ro cao đã làm lợi nhuận ngân hàng giảm xuống.
Có thể bạn quan tâm!
- Thảo Luận Kỳ Vọng Dấu Của Các Biến
- Kết Quả Kiểm Tra Đa Cộng Tuyến Với Nhân Tử Ph Ng Đại Phương Sai
- Kết Quả Hồi Quy Mô Hình Khả Năng Sinh Lời Của Ngân Hàng Từ Lãi Suất Và Các Yếu Tố Quyết Định Lợi Nhuận Khác
- Các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng sinh lời và chấp nhận rủi ro tại các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam - 10
- Các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng sinh lời và chấp nhận rủi ro tại các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam - 11
- Các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng sinh lời và chấp nhận rủi ro tại các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam - 12
Xem toàn bộ 104 trang tài liệu này.
Cuối năm 2016, các khoản nợ xấu, trái phiếu doanh nghiệp và các khoản phải thu bên ngoài khó thu hồi giảm bằng cách chuyển nợ sang VAMC, xử lý nợ xấu qua các hình thức như bán nợ, phát mại tài sản đảm bảo, sử dụng dự phòng rủi ro và các hình thức khác được đẩy mạnh hơn cho thấy một tín hiệu khả quan.
ACB có thành tích đáng nể nhất khi tỷ lệ nợ xấu thấp nhất. Trong khi đó, Sacombank vẫn còn tỷ lệ nợ xấu ở mức khá cao so với quy định nhưng cũng đã cố gắng trong việc xử lý nợ xấu. Tuy là một ông lớn nhưng BIDV vẫn là ngân hàng đang có số nợ xấu lớn nhất.
Để giảm rủi ro tín dụng các ngân hàng đã tăng trích lập dự phòng, với tổng mức trích lập của 13 ngân hàng đạt hơn 51.700 tỷ đồng, tăng tới 38,5% so với năm 2016. Tuy có thành tích nợ xấu thấp nhất nhưng ACB vẫn mạnh tay tăng trích lập dự phòng chiếm tới 49,1% lợi nhuận thuần của ngân hàng. Vietinbank cũng tăng trích lập tới gần 65%, lên 8.344 tỷ đồng, chiếm 47,5% lợi nhuận thuần. Tại BIDV, con số này lên tới 14.915 tỷ đồng, tăng 62,1% so với cùng kỳ và chiếm tới 62,9% lợi nhuận thuần. Đây cũng là ngân hàng trích lập dự phòng nhiều nhất, xét về con số tuyệt đối.
Mặc các ngân hàng phải tốn một khoảng lớn lợi nhuân cho dự phòng rủi ro tín dụng các ngân hàng vẫn cho thấy lợi nhuận vẫn tăng trưởng ngoài mong đợi.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 4
Mục đích của bài viết này là để điều tra tác động của mức lãi suất thấp trên lợi nhuận của ngân hàng và mức độ chấp nhận rủi ro của các ngân hàng. Bằng phương pháp thu thập dữ liệu bảng bao gồm các chỉ số kinh tế vĩ mô, biến lãi suất và bảng cân đối ngân hàng cụ thể cho các biến, các mối quan hệ này được phân tích tại Việt Nam.
Giả định rằng môi trường lãi suất thấp làm giảm lợi nhuận của ngân hàng được xác nhận một phần bằng phân tích của bài báo này. Hơn nữa, khả năng ngân hàng tạo ra lợi nhuận từ hoạt động cho vay và tài trợ truyền thống của họ bị giảm vì lãi suất liên tục thấp. Tuy nhiên, các ngân hàng đã có thể duy trì mức lợi nhuận chung của họ. Điều này có thể đạt được bằng cách hạ thấp mức độ cung cấp xác suất mặc định của dư nợ cho vay nhỏ hơn với môi trường lãi suất thấp.
Nhìn vào ảnh hưởng của lãi suất thấp về rủi ro ngân hàng, thông qua hai kênh chấp nhận rủi ro được xem xét. Một mặt, không có bằng chứng rõ ràng được tìm thấy rằng các ngân hàng tìm kiếm năng suất. Cho đến nay, các ngân hàng đã có thể duy trì mức lợi nhuận chung của họ và có thể bù đắp cho thu nhập ròng giảm. Tuy nhiên, theo thời gian, các ngân hàng có thể thay đổi mô hình kinh doanh của họ và mở rộng hoạt động giao dịch để ít phụ thuộc vào cho vay và tài trợ thực hành. Mặt khác, thấy rằng các ngân hàng giảm đáng kể mức trích lập dự phòng tín dụng trong môi trường lãi suất thấp. Do đó, bộ đệm chống lại tổn thất tín dụng bất ngờ đã co lại. Do đó, các ngân hàng đã duy trì tổng thể của họ mức lợi nhuận với chi phí nhỏ hơn tổn thất tín dụng.
CHƯƠNG 5. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
5.1. Kết luận
Bài nghiên cứu đã phân tích về các yếu tố nội tại cũng như vĩ mô ảnh hưởng đến khả năng sinh lời và chấp nhận rủi ro của ngân hàng để giúp các nhà quản trị, cơ quan chính phủ có thể đưa ra những quyết định đúng đắn, bằng cách thu thập dữ liệu của 20 NHTM tại Việt Nam từ các báo cáo tài chính, cùng các dữ liệu vĩ mô. Tác giả sử dụng phần mềm STATA 12 kết hợp với Panel data, Pooled OLS, FEM, REM, cùng với dữ liệu của 20 NHTM tại Việt Nam có độ tin cậy cao từ các báo cáo tài chính, cùng các chỉ số kinh tế vĩ mô từ các nguồn uy tín nhằm tìm ra mô hình phù hợp nhất.
Mục đích của bài viết này là để điều tra tác động của mức lãi suất thấp và mức độ ảnh hưởng đối với lợi nhuận cũng như đối với mức độ rủi ro của các NHTMCP Việt Nam về cơ bản đã được giải quyết.
Thực nghiệm tại NHTM Việt Nam giai đoạn 2010-2017, sau kết quả phân tích tác giả đã tìm thấy mối tương quan tích cực của lãi suất ngắn hạn ảnh hưởng đến lợi nhuận thuần của hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại. Trong khi đối với lợi nhuận chung thì mối quan hệ này ngược chiều hình chữ U. Có nghĩa là trong thời điểm lãi suất thấp, khi lãi suất tăng thì sẽ làm cho lợi nhuận chung giảm, tuy nhiên khi đến một giai đoạn nhất định, lãi suất tăng thì làm lợi nhuận chung tăng lên.
Bên cạnh đó đối với mối quan hệ của lãi suất ảnh hưởng đến khả năng chấp nhận rủi ro là cùng chiều hình chữ U ngược. Trong giai đoạn lãi suất thấp tác động này là cùng chiều, nhưng khi đến giai đoạn lãi suất tăng cao lên thì có tác động tiêu cực.
Những nhân tố có tác động tích cực, nên có những biện pháp chủ trương hỗ trợ tốt nhất để phát huy để thu về hiệu quả hoạt động tối đa cho ngân. Còn đối với
các yêú tố có tác động ngược chiều thì cần có phương án, biện pháp kiểm soát chặt chẽ để hạn chế những tổn thất ở mức thấp nhất.
5.2. Kiến nghị
Từ những kết quả của bài nghiên cứu, có thể đưa ra một số gợi ý chính sách như sau:
Ta thấy khi lãi suất ngắn hạn thấp sẽ làm cho lợi nhuận của hoạt động tín dụng giảm nhưng không làm cho lợi nhuận chung bị tổn thất do tỷ lệ với môi trường lãi suất thấp. Vì ngân hàng có thể bù dắp cho giảm NIM bằng cách làm cho lợi nhuận chung không suy yếu. Các ngân hàng làm đều này bằng cách tăng đầu tư vào các hoạt động khác ngoài hoạt động truyền thống để tăng thu nhập ngoài lãi. Ngân hàng duy trì mức lợi nhuận chung thông qua việc làm tăng lên thu nhập phí hoặc thông qua việc hạ thấp quy định đối với các hoạt động bảo lãnh, hoạt động kinh doanh ngoại hối, hoạt động dịch vụ ngân hàng điện tử, dịch vụ thẻ, dịch vụ tài chính phái sinh….
Lợi nhuận ngân hàng thực sự bị suy giảm do hậu quả của lãi suất thấp. Hơn nữa, khả năng ngân hàng tạo ra lợi nhuận từ hoạt động cho vay và tài trợ truyền thống của họ bị giảm vì biên lãi ròng đang bị nén bởi lãi suất thấp liên tục. Tuy nhiên, các ngân hàng có thể duy trì mức lợi nhuận chung của họ bằng cách hạ thấp mức độ hiệu quả cung cấp của họ như là xác suất mặc định trên dư nợ cho vay nhỏ hơn với lãi suất thấp môi trường.
Liên quan đến ảnh hưởng của môi trường lãi suất thấp về rủi ro ngân hàng chấp nhận. Một mặt, không có bằng chứng rõ ràng được phát hiện ra rằng các ngân hàng tăng rủi ro. Cho đến nay, các ngân hàng đã có thể duy trì mức lợi nhuận chung của họ và do đó bù đắp cho thu nhập lãi ròng giảm bằng cách đầu tư thông qua nhiều giao dịch rủi ro cao. Tuy nhiên, theo thời gian, các ngân hàng có thể thay đổi
mô hình kinh doanh của họ và mở rộng hoạt động giao dịch để ít phụ thuộc vào cho vay và tài trợ.
Mặt khác, thấy rằng các ngân hàng giảm đáng kể mức tín dụng của họ trích lập dự phòng trong môi trường lãi suất thấp. Do đó, bộ đệm chống lại tổn thất tín dụng bất ngờ đã co lại. Do đó, các ngân hàng đã duy trì tổng thể mức lợi nhuận của họ với chi phí của một bộ đệm nhỏ hơn so với tổn thất tín dụng.
Chính vì vậy các NHTM cần phải chú trọng vào việc đào tạo nâng cao năng lực của nguồn nhân lực là nhân viên cán bộ, nhà quản trị cần phải có năng lực phán đoán những thay đổi bất lợi, những khó khăn của thị trường có thể diễn ra, để đưa ra mức lãi suất hợp lý tránh nguy cơ bị lỗ và đạt được lợi nhuận cao nhất.
5.3. Hạn chế
Mẫu bài nghiên cứu lấy từ 20 NHTMCP tại Việt Nam từ 2010 – 2017 ta có 160 biến quan sát là một con số không quá lớn để có thể có thể phản ánh được hết tổng quan toàn ngành ngân hàng. Đó là chưa kể đến bài nghiên cứu chưa xem xét đến những loại hình ngân hàng khác trong nước và nước ngoài.
Bên cạnh qui mô nghiên cứu hạn chế còn có thời gian nghiên cứu tương đối trong vòng 8 năm cũng không quá dài để có thể đưa ra kết luận khách quan về từng giai đoạn biến đổi của nền kinh tế.
Các biến cũng như phương pháp nghiên cứu đã được sử dụng phổ biến trong những bài nghiên cứu trong nước và ngoài nước trước đó. Thêm phần hạn chế nữa là còn nhiều biến chưa được đưa vào mô hình nghiên cứu.
5.4. Hướng nghiên cứu tương lai
Hạn chế của bài nghiên cứu này là do hạn chế mẫu và thời gian, quy mô nghiên cứu. Nên các nghiên cứu tiếp theo, khi thông tin được công bố minh bạch và
dữ liệu được lấy dễ hơn khi đó mẫu được lấy rộng hơn. Từ đó dễ dàng so sánh được giữa ngân hàng nội địa với các ngân hàng nước ngoài cũng như phân tích mô hình của từng loại ngân hàng khác nhau để thấy được sự khác biệt về ảnh hưởng của các yếu tố đến từng khối ngân hàng trong khoản thời gian dài hơn.
Có thể bổ sung thêm nhiều biến khác, tập trung đo lường ảnh hưởng của các yếu tố bên ngoài ngân hàng như chính sách tài chính, tiền tệ, sự phát triển thị trường chứng khoán… để làm rõ ảnh hưởng của các yếu tố này đến khả năng sinh lời.
Sử dụng thêm phương pháp phân tích hiệu quả biên – cách tiếp cận tham số bao dữ liệu (Data Envelopment Analysis – DEA) để đo lường nhân tố hiệu quả ngân hàng một cách tổng quát hơn, đo lường năng suất lao động và khoa học công nghệ của ngân hàng.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 5
Chương 5 đã tóm lược kết quả nghiên cứu thực nghiệm các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng sinh lời và chấp nhận rủi ro của NHTMCP Việt Nam. Và đưa ra một số gợi ý phù hợp thông qua việc phát huy yếu tố ảnh hưởng tích cực, hạn chế các nhân tố ảnh hưởng tiêu cực đến khả năng sinh lời và chấp nhận rủi ro của NHTMCP Việt Nam. Bài nghiên cứu đã tìm được mô hình khá phù hợp có thể cung cấp cho các bên liên quan tham khảo trong công tác điều hành quản lý các NHTMCP đầu tư, gửi tiền và quản lý vĩ mô. Đồng thời, chương này cũng nhìn nhận một số hạn chế mà tác giả chưa giải quyết được và định hướng cho các nghiên cứu tiếp theo.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
Báo cáo tài chính đã kiểm toán của các NHTMCP Việt Nam từ năm 2010- 2017.
Hồ Thị Hồng Minh, Nguyễn Thị Cành 2015, Đa dạng hoá thu nhập và các yếu tố tác động đến khả năng sinh lời của các NHTM Việt Nam, Công nghệ ngân hàng, no.106+107 (tháng 01+02/2015, trang 13-21).
Luật các Tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12 ban hành ngày 16/6/2010 của Quốc hội.
Nghiên cứu của Trịnh Quốc Trung và Nguyễn Văn Sang (2013). Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam. Tạp chí Công nghệ ngân hàng, số 85, trang 11 – 15.
Nguyễn Minh Hà và Nguyễn Công Tâm (2012). Hiệu quả hoạt động của 5 ngân hàng tại các nước Đông Nam Á và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. Tạp
Chí Kinh tế và Chính trị Thế Giới, số 11
Nguyễn Phạm Nhã Trúc & Nguyễn Phạm Thiên Thanh (2016), Các nhân tố tác động đến khả năng sinh lời của hệ thống ngân hàng thương mại tại Việt Nam, Tạp chí Kinh Tế và Phát Triển, số 228, tháng 06 năm 2016, tr. 52-59.
Nguyễn Thị Mỹ Linh và Nguyễn Thị Ngọc Hương (2015), Các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập lãi cận biên của các ngân hàng thương mại cổ phần tại Việt Nam, Tạp Chí Ngân Hàng, số 19 (tháng 10/2015, trang 8-14).
Nguyễn Thị Thu Hiền (2017), Các yếu tố đặc trưng xác định khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại Việt Nam, Tạp chí Công Thương.
Thông tư số 02/2013/TT-NHNN ngày 21/1/2013 của NHNN Việt Nam qui định về phân loại tài sản có, mức trích, phương pháp trích lập dự phòng rủi ro và việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động của Tổ chức tín dụng, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài.