CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TẠI CÁC DOANH NGHIỆP KIỂM TOÁN ĐỘC LẬP
Để giúp quá trình nghiên cứu cơ sở lý luận về kiểm toán BCTC NHTM do các DNKT thực hiện hiệu quả nhất, trong chương 1 này, tác giả đã đi sâu tìm hiểu các nội dung chính gồm: Tổng quan về NHTM và đặc điểm NHTM ảnh hưởng đến kiểm toán BCTC NHTM; Kiểm toán BCTC NHTM do các DNKT thực hiện và kinh nghiệm quốc tế về kiểm toán độc lập BCTC NHTM. Sau đây, tác giả sẽ trình bày chi tiết từng nội dung trên để làm rõ cơ sở lý luận cho kiểm toán BCTC NHTM do các DNKT thực hiện.
1.1. TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ ĐẶC ĐIỂM NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI ẢNH HƯỞNG ĐẾN KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
Để làm rõ cơ sở lý luận về kiểm toán BCTC NHTM, trong phần này tác giả trình bày tổng quan về khái niệm, vai trò, chức năng và các loại NHTM cũng như các đặc điểm trong hoạt động kinh doanh của NHTM ảnh hưởng đến kiểm toán BCTC NHTM.
1.1.1. Tổng quan về ngân hàng thương mại
1.1.1.1. Khái niệm và phân loại ngân hàng thương mại trong nền kinh tế
Khái niệm về ngân hàng thương mại
Có thể bạn quan tâm!
- Hoàn thiện kiểm toán báo cáo tài chính ngân hàng thương mại tại các doanh nghiệp kiểm toán độc lập ở Việt Nam - 1
- Hoàn thiện kiểm toán báo cáo tài chính ngân hàng thương mại tại các doanh nghiệp kiểm toán độc lập ở Việt Nam - 2
- Tình Hình Nghiên Cứu Ngoài Nước Có Liên Quan Đến Luận Án
- Đặc Điểm Ngân Hàng Thương Mại Ảnh Hưởng Đến Kiểm Toán Báo Cáo Tài Chính Ngân Hàng Thương Mại
- Nội Dung Kiểm Toán Báo Cáo Tài Chính Ngân Hàng Thương Mại
- Hiểu Biết Về Môi Trường Công Nghệ Thông Tin Của Nhtm
Xem toàn bộ 296 trang tài liệu này.
Khoảng 3.500 năm trước công nguyên trở về trước nữa, có rất ít tư liệu về sự hoạt động của một cái gì mang tính chất giống như ngân hàng. Giai đoạn từ 3.500 năm trước công nguyên đến 1.800 năm trước công nguyên, tư liệu cho biết đã có một vài hoạt động mang tính chất khá tương tự như một số hoạt động của ngân hàng. Lịch sử gọi đây là giai đoạn của các ngân hàng sơ khai. Các ngân hàng này ra đời khi các cơ cấu tổ chức xã hội bắt đầu hình thành. Sự hình thành và phát triển của ngân hàng có thể chia làm 4 giai đoạn: 1- Hoạt động của các ngân hàng sơ khai; 2 - Hoạt động ngân hàng giai đoạn II; 3- Hoạt động ngân hàng giai đoạn III; 4- Ngân hàng trong giai đoạn hiện đại.
Hệ thống ngân hàng được chia làm 2 hệ thống chính: Ngân hàng trung ương (NHTW) và các ngân hàng trung gian.Vì sự liên đới mật thiết với nhau trên thị trường tiền tệ và tài chính, nhiều tổ chức không phải ngân hàng nhưng cũng tham gia vào hoạt động cho vay và kinh doanh tiền tệ như các công ty bảo hiểm, công ty tài chính, các công ty kinh doanh và môi giới chứng khoán…Các tổ chức này được nhiều nước xem như bộ phận thứ ba của hệ thống ngân hàng hay các tổ chức trung gian tài chính khác. Cơ cấu tổ chức của hệ thống ngân hàng trong nền kinh tế được trình bày tại Phụ lục số
1.1 – Sơ đồ tổ chức hệ thống tài chính.
Quá trình hình thành và hoàn thiện hệ thống ngân hàng đã tạo ra các NHTM, bộ phận lớn nhất trong nhóm các ngân hàng trung gian với đặc trưng là tổ chức kinh doanh tiền tệ. Vậy thế nào là một NHTM? Có rất nhiều quan điểm và định nghĩa khác nhau về NHTM vì tính chất phức tạp của các nghiệp vụ ngân hàng, có nhiều loại ngân hàng khác nhau, quan niệm về ngân hàng thay đổi theo không gian (tập quán, luật lệ của mỗi nước) và theo thời gian (theo đà tiến triển kinh tế - xã hội).
Theo Peter S.Rose: “Ngân hàng là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất – đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán và đây là một đơn vị kinh tế thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế” [37]. Định nghĩa này đã nêu các hoạt động kinh doanh cơ bản và cũng là đặc trưng của một ngân hàng nói chung và một NHTM nói riêng. Một số khái niệm về NHTM được đưa ra dựa trên các hoạt động chủ yếu cú nó.
Ví dụ theo quy định tại Điều 20, Luật các tổ chức tín dụng của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam được quốc hội khóa X thông qua thì: “Ngân hàng là loại hình TCTD được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng phát triển, ngân hàng đầu tư, ngân hàng chính sách và các loại hình ngân hàng khác” và “Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán” [40]. Định nghĩa này đã nêu đầy đủ về các hoạt động kinh doanh cơ bản của một NHTM điển hình.
Ngày nay, cùng với sự phát triển của nền kinh tế, dưới sự tác động của môi trường cạnh tranh và hợp tác đã tạo nên sự thâm nhập lẫn nhau giữa các NHTM với các định chế tài chính phi ngân hàng, với các công ty mà hình thành nên các tập đoàn kinh tế lớn. Theo đó khái niệm về NHTM cũng có sự thay đổi theo các khía cạnh khác nhau nên khó có thể đưa ra một định nghĩa chính xác về NHTM. Tuy nhiên, trong khuôn khổ nghiên cứu của Luận án này, trên cơ sở các chức năng và hoạt động cơ bản của NHTM, tác giả rút ra khái niệm về NHTM như sau:
Ngân hàng thương mại là một loại hình của TCTD chuyên kinh doanh về tiền tệ và cung cấp các dịch vụ ngân hàng. Hoạt động chính của NHTM là nhận tiền gửi, cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán.
Qua các định nghĩa về ngân hàng và NHTM trên đây có thể thấy NHTM có các đặc trưng cơ bản sau: Là một loại định chế tài chính trung gian hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận; Là một loại hình DN cung cấp danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất, đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán; Thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế.
Để có thể hiểu thêm về mối quan hệ của NHTM trong hệ thống các tổ chức tín dụng, cần tìm hiểu thêm một số thuật ngữ khác có liên quan đến NHTM như NHTW, NHNN, Ngân hàng đầu tư, Ngân hàng phát triển, Ngân hàng chuyên doanh, ngân hàng đa năng, ngân hàng bán buôn, ngân hàng bán lẻ, ngân hàng nhà nước, ngân hàng cổ phần (Xem chi tiết tại Phụ lục 1.2 – Giải thích một số thuật ngữ trong hệ thống các tổ chức tín dụng).
Các loại ngân hàng thương mại trong nền kinh tế
Tuy các NHTM trong nền kinh tế đều có các chức năng và các loại hoạt động tương tự nhau nhưng giữa các NHTM cũng có những điểm khác biệt về loại hình hoạt động, về lĩnh vực hoạt động hay hình thức sở hữu. Thông thường, trong nền kinh tế các NHTM được phân thành các loại sau:
- Xét theo loại hình hoạt động thì có NHTM bán buôn và NHTM bán lẻ;
- Xét theo lĩnh vực hoạt động có NHTM chuyên doanh và NHTM đa năng;
- Xét theo hình thức sở hữu có NHTM Nhà nước, còn gọi là Ngân hàng Công và NHTM cổ phần.
1.1.1.2. Chức năng và vai trò của ngân hàng thương mại
Các nhà kinh tế khó khăn trong việc định nghĩa ngân hàng nhưng lại thống nhất quan niệm về vai trò và chức năng của NHTM như sau:
1.1.1.2.1. Chức năng của ngân hàng thương mại
Thứ nhất, chức năng làm thủ quỹ cho xã hội: NHTM có chức năng này vì NHTM nhận tiền gửi của công chúng, của DN và các tổ chức, giữ tiền cho khách hàng của mình, đáp ứng nhu cầu rút tiền và chi tiền của họ. Chính chức năng này của NHTM dẫn đến chức năng trung gian thanh toán và trung gian tín dụng của NHTM.
Thứ hai, chức năng làm trung gian thanh toán: NHTM làm trung gian thanh toán khi nó thực hiện thanh toán theo yêu cầu của khách hàng như trích tiền từ tài khoản tiền gửi của họ để thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ hoặc nhập vào tài khoản tiền gửi của khách hàng tiền thu từ bán hàng và các khoản thu khác theo lệnh của họ.
Thứ ba, chức năng làm trung gian tín dụng: NHTM làm trung gian tín dụng khi nó là “cầu nối” giữa người có vốn dư thừa và người có nhu cầu về vốn. Thông qua việc huy động các khoản vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế, ngân hàng hình thành nên quỹ cho vay của nó rồi đem cho vay đối với nền kinh tế.Với chức năng này, ngân hàng vừa đóng vai trò là người đi vay, vừa đóng vai trò là người cho vay.
Thứ tư, chức năng tạo tiền: Mặc dù hiện nay NHTM không có chức năng phát hành giấy bạc ngân hàng song kết hợp giữa chức năng trung gian tín dụng và chức năng trung gian thanh toán làm cho hệ thống NHTM có khả năng tạo tiền gửi thanh toán. Một ngân hàng sau khi nhận được một món tiền gửi trên tài khoản tiền gửi của khách hàng tại ngân hàng sẽ có số dư. Với số tiền này sau khi đã để lại một khoản dự
trữ bắt buộc, ngân hàng sẽ đem đi đầu tư cho vay từ đó nó sẽ chuyển sang vốn của ngân hàng khác. Với vòng quay của vốn thông qua chức năng tín dụng và thanh toán của ngân hàng NHTM đã thực hiện chức năng tạo tiền.
Các chức năng của NHTM có mối quan hệ chặt chẽ, bổ sung, hỗ trợ cho nhau, trong đó chức năng trung gian tín dụng là chức năng cơ bản nhất, tạo cơ sở cho việc thực hiện các chức năng khác. Đồng thời khi ngân hàng thực hiện tốt chức năng thủ quỹ và trung gian thanh toán lại góp phần tăng nguồn vốn tín dụng, mở rộng quy mô hoạt động của ngân hàng.
1.1.1.2.2. Vai trò của Ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại ra đời do yêu cầu của sự phát triển kinh tế. Nền sản xuất và lưu thông hàng hóa, nền kinh tế ngày càng phát triển càng cần đến hoạt động của các NHTM. Thông qua việc thực hiện các chức năng của mình nhất là chức năng trung gian tín dụng, NHTM đã trở thành một bộ phận thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Vai trò của NHTM được thể hiện như sau:
Thứ nhất, ngân hàng là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế
Nền kinh tế phát triển càng cao thì nhu cầu về vốn càng lớn. Vốn đóng vai trò rất quan trọng trong việc đầu tư mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như duy trì chính hoạt động đó nhằm đảm bảo hiệu quả của DN. Chịu trách nhiệm với nhiệm vụ này, NHTM đã đứng ra huy động các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của mọi tổ chức, cá nhân, mọi thành phần kinh tế. Thông qua nghiệp vụ tín dụng NHTM đã cung cấp vốn cho nền kinh tế, đáp ứng đầy đủ, kịp thời cho quá trình tái sản xuất. Với vai trò này, NHTM cũng chính là cầu nối giữa doanh nghiệp và thị trường.
Thứ hai, NHTM là công cụ để Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế
Thông qua hoạt động tín dụng và thanh toán giữa các ngân hàng trong hệ thống, các NHTM đã góp phần mở rộng hay thu hẹp lượng tiền trong lưu thông. Hơn nữa bằng việc cấp các khoản tín dụng cho nền kinh tế, NHTM thực hiện việc dẫn dắt các luồng tiền, tập hợp, phân chia vốn của thị trường, điều khiển chúng một cách hiệu quả, thực thi vai trò điều tiết vĩ mô đúng theo phương châm “Nhà nước điều tiết Ngân hàng, Ngân hàng dẫn dắt thị trường”.
Thứ ba, NHTM là cầu nối giữa nền tài chính quốc gia với nền tài chính quốc tế
Xu thế liên kết, hợp tác, khu vực hóa, toàn cầu hóa đã là xu thế chung trên thế giới hiện nay. Chính xu thế đó đã khiến các quốc gia tuy xa cách nhau về mặt địa lý vẫn xích lại gần nhau hơn. Bởi sự phát triển của nền kinh tế mỗi quốc gia luôn gắn với sự phát triển của nền kinh tế thế giới và là một bộ phận không thể thiếu, cấu thành nên sự phát triển đó. NHTM với hoạt động nhận tiền gửi, cho vay, nghiệp vụ thanh toán, nghiệp vụ hối đoái và các nghiệp vụ khác đã góp phần thúc đẩy ngoại thương mở rộng.
Cũng thông qua các hoạt động thanh toán, buôn bán ngoại hối, quan hệ tín dụng với ngân hàng nước ngoài, hệ thống ngân hàng đã thực hiện vai trò điều tiết nền tài chính trong nước phù hợp với sự vận động của nền tài chính quốc tế.
1.1.1.3. Các hoạt động kinh doanh cơ bản của ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại thường có các hoạt động kinh doanh cơ bản sau đây:
Hoạt động huy động vốn
Một NHTM bất kỳ bao giờ cũng bắt đầu hoạt động của mình bằng việc huy động nguồn vốn. Nguồn vốn của NHTM là toàn bộ các nguồn tiền tệ của ngân hàng, do ngân hàng tạo lập, huy động được sử dụng để cho vay, đầu tư và thực hiện các dịch vụ của ngân hàng. Cụ thể, nguồn vốn của NHTM bao gồm các loại sau:
Thứ nhất, Nguồn vốn chủ sở hữu: Vốn chủ sở hữu là số vốn thuộc quyền sở hữu của NHTM. Nguồn vốn chủ sở hữu của ngân hàng thường bao gồm: Vốn điều lệ, các quỹ dự trữ và các tài sản nợ khác theo luật định của NHTM (cổ phiếu ưu đãi, trái phiếu chuyển đổi, chênh lệch tỷ giá hối đoái…)
Thứ hai, Vốn huy động: Vốn huy động của NHTM dưới hình thức bằng tiền (nội tệ, ngoại tệ), bằng vàng được hình thành từ hai bộ phận: Vốn huy động từ tiền gửi (tiền gửi giao dịch và tiền gửi phi giao dịch) và vốn huy động thông qua phát hành các giấy tờ có giá (phát hành các chứng chỉ tiền gửi, phát hành trái phiếu, kỳ phiếu, tín phiếu ngân hàng). Vì NHTM là DN kinh doanh tiền gửi nên vốn hình thành từ tiền gửi luôn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong cơ cấu vốn kinh doanh của ngân hàng.
Thứ ba, Vay các TCTD khác và của NHTW: NHTM có thể vay nợ tại các ngân hàng khác như vay NHTW qua hình thức chiết khấu, tái chiết khấu các giấy tờ có giá, các hợp đồng tín dụng đã cấp cho khách hàng, hoặc vay của các tổ chức tài chính khác trên thị trường tiền tệ nhằm bổ sung cho thiếu hụt tạm thời về vốn.
Thứ tư, Hoạt động tiếp nhận vốn: Các NHTM tiếp nhận vốn ủy thác từ NHTW cho các chương trình của Chính phủ hoặc từ các tổ chức kinh tế của các quốc gia và Chính phủ khác hoặc các định chế tài chính quốc tế cũng như của các chủ thể khác.
Hoạt động tín dụng
NHTM cấp tín dụng cho các tổ chức, cá nhân dưới các hình thức cho vay, chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá khác, bảo lãnh, cho thuê tài chính và các hình thức khác theo quy định của pháp luật. Trong các hoạt động cấp tín dụng, cho vay là hoạt động quan trọng và chiếm tỷ trọng lớn nhất.
Cho vay: Cho vay là một quan hệ giao dịch giữa hai chủ thể (NHTM và người vay), trong đó một bên (NHTM) chuyển giao tiền hoặc tài sản cho bên kia (người vay) sử dụng trong một thời gian nhất định, đồng thời bên nhận tiền hoặc tài sản cam kết hoàn trả vốn (gốc và lãi) cho bên cho vay vô điều kiện theo thời hạn đã thỏa thuận.
Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động cho vay của NHTM rất đa dạng và phong phú với nhiều hình thức khác nhau hay có nhiều loại tín dụng khác nhau tùy vào mục đích vay, thời hạn vay và hình thức đảm bảo tiền vay.
Cho thuê tài chính: Là hoạt động tín dụng trung dài hạn thông qua việc cho thuê máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác trên cơ sở hợp đồng cho thuê giữa bên cho thuê (NHTM) và bên thuê.
Bảo lãnh ngân hàng (Bank Guarantee): Là cam kết bằng văn bản của NHTM (bên bảo lãnh) với bên có quyền (bên nhận bảo lãnh) về việc thực hiện các nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng (bên được bảo lãnh) khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh. Khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả nợ cho NHTM số tiền đã được trả thay.
Chiết khấu chứng từ có giá (Discounting): Là một hình thức cấp tín dụng theo đó các NHTM nhận các chứng từ có giá và trao cho khách hàng một số tiền bằng mệnh giá của chứng từ nhận chiết khấu trừ đi phần lợi nhuận và chi phí mà ngân hàng được hưởng. Các NHTM hiện nay thường nhận chiết khấu hai loại chứng từ cơ bản: thương phiếu và chứng từ có giá khác như trái phiếu, kỳ phiếu…
Bao thanh toán (Factoring):Là hình thức cấp tín dụng của NHTM cho bên bán hàng thông qua việc mua lại các khoản phải thu phát sinh từ việc mua, bán hàng hoá đã được bên bán hàng và bên mua hàng thoả thuận trong hợp đồng mua, bán hàng.
Thấu chi: Là hình thức cấp tín dụng của NHTM cho khách hàng bằng cách cho phép khách hàng chi vượt một số tiền nhất định trong tài khoản thanh toán của khách hàng, đáp ứng nhu cầu cần tiền nóng của khách hàng, vì vậy lãi suất thường cao và tính theo ngày.
…
Hoạt động dịch vụ thanh toán và ngân quỹ
Hoạt động dịch vụ thanh toán và ngân quỹ của NHTM bao gồm các hoạt động như: Cung cấp các phương tiện thanh toán; Thực hiện các dịch vụ thanh toán trong nước cho khách hàng; Thực hiện dịch vụ thu hộ và chi hộ; Thực hiện các dịch vụ thanh toán khác theo quy định của ngân hàng nhà nước; Thực hiện dịch vụ thanh toán quốc tế khi được NHNN cho phép; Thực hiện dịch vụ thu và phát tiền mặt cho khách hàng; Tổ chức hệ thống thanh toán nội bộ và tham gia hệ thống thanh toán liên ngân hàng trong nước; Tham gia hệ thống thanh toán quốc tế khi được NHNN cho phép.
Các hoạt động khác
Ngoài các hoạt động chính bao gồm huy động tiền gửi, cấp tín dụng và cung cấp dịch vụ thanh toán và ngân quỹ, NHTM còn thực hiện một số hoạt động khác, bao gồm: Hoạt động đầu tư trực tiếp; Hoạt động đầu tư gián tiếp; Dịch vụ ủy thác; Dịch vụ
tư vấn; Cung cấp các dịch vụ bảo hiểm; Môi giới; Phát hành và thanh toán hộ trái phiếu chính phủ; Kinh doanh vàng, ngoại tệ; Cho thuê tủ, két sắt…
Trước sự bùng nổ của CNTT, các NHTM cung cấp nhiều dịch vụ ngân hàng điện tử như: Thẻ, Internet Banking, Phonebanking hay các dịch vụ ngân hàng quốc tế được ngân hàng cung cấp cho khách hàng của mình.
Không phải NHTM nào cũng đều thực hiện kinh doanh tất cả các dịch vụ trên. Tùy theo quy định luật pháp từng quốc gia, tùy theo đặc điểm, chiến lược kinh doanh, mục tiêu hoạt động của từng ngân hàng mà họ lựa chọn sản phẩm cung cấp phù hợp với ngân hàng mình. Các NHTM hiện nay đang trở thành một bách hóa tài chính trong nền kinh tế do đó khách hàng có thể thỏa mãn tất cả các nhu cầu dịch vụ tài chính của mình tại một NHTM thông qua một địa điểm.
1.1.2. Khái niệm kiểm toán báo cáo tài chính ngân hàng thương mại
Nhiều nhà nghiên cứu lịch sử cho rằng kiểm toán đã ra đời từ cách đây rất lâu, vào khoảng thế kỷ thứ III trước Công nguyên, gắn liền với nền văn minh của Ai Cập và La Mã cổ đại. Mặc dù kiểm toán ra đời từ rất lâu nhưng cách hiểu về kiểm toán cũng chưa được thống nhất. Có rất nhiều quan điểm khác nhau về kiểm toán. Tuy nhiên, có một quan điểm được giới nghiên cứu lý luận và thực tiễn khẳng định là phù hợp, đầy đủ và đúng đắn nhất về kiểm toán là định nghĩa của giáo sư Alvin A. Arens của Trường Đại học tổng hợp quốc gia Missigan và giáo sư James K.Loebbecke của trường Đại học Utah nêu rằng: "Kiểm toán là quá trình các KTV độc lập và có năng lực tiến hành thu thập và đánh giá các bằng chứng về các thông tin được kiểm toán nhằm xác nhận và báo cáo về mức độ phù hợp giữa các thông tin này với các chuẩn mực đã được thiết lập” [17].
Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động kiểm toán phát triển rất đa dạng, phong phú và bao gồm nhiều loại khác nhau tùy theo các tiêu chí phân loại. Theo đối tượng trực tiếp, kiểm toán có thể phân loại thành kiểm toán BCTC, kiểm toán hoạt động và kiểm toán tuân thủ. Theo tổ chức bộ máy kiểm toán, kiểm toán có thể phân loại thành kiểm toán nhà nước, kiểm toán độc lập và kiểm toán nội bộ…Như vậy, kiểm toán BCTC là loại hình kiểm toán cụ thể khi phân loại theo đối tượng trực tiếp của kiểm toán.
Từ khái niệm chung về kiểm toán đã được nêu ra ở trên, tác giả rút ra khái niệm về kiểm toán BCTC NHTM như sau: “Kiểm toán BCTC NHTM là quá trình các KTV độc lập và có năng lực tiến hành thu thập và đánh giá các bằng chứng về BCTC được kiểm toán của NHTM nhằm xác nhận và báo cáo về mức độ phù hợp của BCTC này so với các chuẩn mực đã được thiết lập”. Khái niệm này được phân tích cụ thể như sau:
Chủ thể tiến hành cuộc kiểm toán độc lập BCTC NHTM là các KTV thuộc các DNKT độc lập. Theo yêu cầu chung, các KTV này phải đảm bảo có năng lực chuyên môn và phẩm chất đạo đức nghề nghiệp tương xứng. Về năng lực chuyên môn, các KTV phải đảm bảo yêu cầu về trình độ chuyên môn và khả năng thực hiện công việc
kiểm toán BCTC NHTM. Về phẩm chất đạo đức nghề nghiệp, các KTV phải đảm bảo tuân thủ các nguyên tắc đạo đức nghề nghiệp như Độc lập; Chính trực; Khách quan; Năng lực chuyên môn và tính thận trọng; Tính bảo mật; Tư cách nghề nghiệp và Tuân thủ chuẩn mực chuyên môn.
Đối tượng của cuộc kiểm toán là các BCTC được kiểm toán của NHTM hay các thông tin thể hiện trên BCTC được kiểm toán của NHTM.
Mục tiêu của cuộc kiểm toán BCTC NHTM là KTV đưa ra ý kiến về mức độ phù hợp của BCTC của NHTM so với các tiêu chuẩn đã được thiết lập.
Các tiêu chuẩn đã được thiết lập để đánh giá BCTC của NHTM thường gồm: Các quy định về kế toán như Luật kế toán; Chuẩn mực kế toán; Chế độ kế toán DN nói chung và chế độ kế toán áp dụng riêng cho các TCTD; Các quy định về kế toán tại bản thân các NHTM. Ngoài ra, khi kiểm toán BCTC NHTM, KTV còn phải căn cứ vào các quy định pháp lý khác có liên quan đến hoạt động của ngân hàng và các TCTD do các cơ quan có thẩm quyền ban hành.
Kết thúc cuộc kiểm toán, KTV lập báo cáo kiểm toán để nêu rõ ý kiến của KTV về tính trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu của BCTC NHTM theo quy định của chuẩn mực kiểm toán. Ngoài ra, KTV còn lập Thư quản lý để gửi cho BGĐ của ngân hàng nhằm nêu lên những hạn chế còn tồn tại và những tư vấn cho ngân hàng hoàn thiện hệ thống KSNB nói riêng, hoạt động kinh doanh nói chung.
Để thực hiện cuộc kiểm toán BCTC NHTM, KTV cần xác định phương pháp tiếp cận kiểm toán làm kim chỉ nam định hướng các KTV thực hiện cuộc kiểm toán đảm bảo khoa học, hiệu quả và có chất lượng. Cho đến nay, trong kiểm toán BCTC nói chung, kiểm toán BCTC NHTM nói riêng KTV có thể áp dụng một trong các phương pháp tiếp cận kiểm toán là Phương pháp tiếp cận dựa trên các thủ tục cơ bản (The substantive procedures approach); Phương pháp tiếp cận dựa trên bảng CĐKT (The balance sheet approach); Phương pháp tiếp cận hệ thống (The systems-based approach) và Phương pháp tiếp cận dựa trên rủi ro (The risk-based approach) [61].
Với phương pháp tiếp cận dựa trên các thủ tục cơ bản, các nguồn lực kiểm toán được tập trung vào việc kiểm tra một khối lượng lớn các giao dịch và số dư tài khoản mà không có bất kỳ sự tập trung đặc biệt nào vào các vùng cụ thể của BCTC. Hạn chế lớn nhất của phương pháp này là khối lượng công việc kiểm toán nhiều do KTV thực hiện công việc tràn lan, không có trọng tâm, trọng điểm và không có chiến lược.
Với phương pháp tiếp cận dựa trên bảng CĐKT, các thủ tục cơ bản được tập trung vào các số dư tài khoản của bảng CĐKT (báo cáo tình hình tài chính) chỉ với một số thủ tục rất hạn chế được thực hiện đối với các khoản mục trên báo cáo thu nhập/báo cáo lãi lỗ. Phương pháp này tương đối giống phương pháp tiếp cận dựa trên các thủ tục cơ bản và cũng có những điểm hạn chế tương tự phương pháp tiếp cận dựa trên các thủ tục cơ bản.