Khái Niệm, Mục Tiêu Và Vai Trò Kiểm Soát Chất Lượng Kiểm Toán Báo Cáo Tài Chính

220 - Kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán: “Chất lượng hoạt động kiểm toán là mức độ thoả mãn của các đối tượng sử dụng kết quả kiểm toán về tính khách quan và độ tin cậy vào ý kiến kiểm toán của kiểm toán viên; đồng thời thoả mãn mong muốn của đơn vị được kiểm toán về những ý kiến đóng góp của kiểm toán viên nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh, trong thời gian định trước với giá phí hợp lý”.

Vậy chất lượng hoạt động kiểm toán có thể được xem xét dưới ba góc độ:

Thứ nhất, mức độ người sử dụng thông tin thỏa mãn đối với tính khách quan và độ tin cậy của kết quả kiểm toán;

Tính khách quan, độc lập của kiểm toán viên là điều kiện trước hết để đảm bảo ý nghĩa và giá trị sử dụng của dịch vụ kiểm toán độc lập. Ý kiến kiểm toán đưa ra không làm tăng thêm lượng thông tin cho những người sử dụng kết quả kiểm toán mà chỉ đảm bảo cho những đối tượng này về tính trung thực hợp lý của các báo cáo tài chính mà họ được cung cấp. Sự đảm bảo này được chấp nhận và có giá trị bởi: (i) ý kiến kiểm toán được đưa ra bởi chuyên gia kiểm toán có đủ năng lực, trình độ chuyên môn; (ii) tính độc lập, khách quan của ý kiến kiểm toán. Những người sử dụng kết quả kiểm toán chỉ thật sự hài lòng và thoả mãn khi họ tin tưởng rằng ý kiến kiểm toán đưa ra dựa trên các cơ sở đó. Để đánh giá được chỉ tiêu này, người ta xem xét tính tuân thủ các chuẩn mực nghề nghiệp của kiểm toán viên và của công ty kiểm toán, điều này thể hiện khá rò qua tính chuyên nghiệp của kiểm toán viên trong quá trình thực hiện công việc kiểm toán.

Thứ hai, mức độ đơn vị được kiểm toán thỏa mãn về ý kiến đóng góp nhằm mục đích nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh;

Mục tiêu chính của kiểm toán báo cáo tài chính là đưa ra ý kiến độc lập về tính trung thực và hợp lý của các báo cáo tài chính. Do vậy ở chỉ tiêu thứ nhất là thể hiện sự thoả mãn về tính khách quan, độc lập và tin cậy vào ý kiến kiểm toán của những người sử dụng kết quả kiểm toán thì ở chỉ tiêu này lại là sự thoả mãn của đơn vị được kiểm toán về giá trị gia tăng mà kiểm toán viên có thể cung cấp cho đơn vị. Đối với các nhà quản lý đơn vị được kiểm toán, việc phát hiện và ngăn ngừa các sai sót trong quản lý tài chính, kế toán không phải lúc nào cũng hoàn hảo và kiểm soát được toàn bộ. Do vậy báo cáo tài chính do đơn vị lập nên vẫn có thể có những sai sót trọng yếu do những hạn chế trong hệ thống kiểm soát của đơn vị. Trách nhiệm của các kiểm toán viên là phải đảm bảo rằng báo cáo tài chính đó không có sai sót trọng yếu, và nếu có

kiểm toán cần chỉ ra những sai sót đó để đơn vị sửa chữa và điều chỉnh hoặc là cơ sở cho việc không đưa ra ý kiến chấp nhận toàn phần. Đó chính là cơ sở để các nhà quản lý đơn vị tin tưởng và đặt hy vọng vào những phát hiện và những kiến nghị đóng góp của kiểm toán viên, theo đó có thể sửa đổi và đảm bảo rằng báo cáo tài chính của họ là trung thực và hợp lý. Hơn nữa, thông qua những phát hiện và kiến nghị đóng góp của kiểm toán viên các nhà quản lý đơn vị có thể hoàn thiện hệ thống kiểm soát của mình và nâng cao hiệu quả quản lý tài chính kế toán của đơn vị.

Mức độ thoả mãn của các nhà quản lý đơn vị đối với những đóng góp của kiểm toán không cụ thể hoá được bằng số lượng bởi có thể có hoặc có thể không có các phát hiện và kiến nghị góp ý hoàn thiện hệ thống kiểm soát của đơn vị mà chỉ có thể đánh giá ở sự hài lòng và đánh giá cao của các nhà quản lý doanh nghiệp về tính chuyên nghiệp và trách nhiệm của kiểm toán viên trong quá trình kiểm toán.

Thứ ba, báo cáo kiểm toán được lập và phát hành theo đúng thời gian đã đề ra trong hợp đồng kiểm toán và chi phí dịch vụ kiểm toán ở mức hợp lý.

Một trong các yêu cầu của thông tin tài chính là tính kịp thời, các thông tin không được cung cấp đúng lúc sẽ trở nên không có giá trị sử dụng, đồng thời có thể gây nhiều khó khăn trong việc đưa ra các quyết định quản lý hoặc bỏ lỡ các cơ hội kinh doanh. Mặc dù kiểm toán không phải là kênh cung cấp thông tin riêng biệt, nhưng nó là một khâu thẩm định trong hệ thống cung cấp thông tin. Các thông tin tài chính do đơn vị lập và được các kiểm toán viên, công ty kiểm toán kiểm tra và đưa ra ý kiến về tính trung thực hợp lý của các thông tin này trước khi chuyển cho những người sử dụng. Do vậy mọi chậm trễ trong quá trình kiểm toán do nguyên nhân của việc tổ chức, giám sát quản lý cuộc kiểm toán thiếu hiệu quả hoặc bất cứ lý do gì khác từ phía công ty kiểm toán dẫn đến sự chậm trễ không theo đúng kế hoạch đặt ra trong hợp đồng kiểm toán/ hay Thư hẹn kiểm toán đều làm ảnh hưởng đến uy tín và giá trị của dịch vụ của công ty kiểm toán.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 141 trang tài liệu này.

Về giá phí kiểm toán, đây cũng là chỉ tiêu quan trọng đánh giá chất lượng kiểm toán. Ở chỉ tiêu thứ nhất và thứ hai nói lên tính chất kỹ thuật của dịch vụ, nó đánh giá mức độ thoả mãn nhu cầu của những người sử dụng kết quả của dịch vụ kiểm toán về sự đảm bảo cho tính trung thực, hợp lý của các báo cáo tài chính mà họ được cung cấp cũng như lượng những ý kiến tư vấn nhằm hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị được kiểm toán. Trong nền kinh tế thị trường đặc biệt là hoạt động kiểm toán

độc lập, việc quan tâm đến lợi ích của đơn vị được kiểm toán hết sức quan trọng, đó chính là yếu tố kinh tế xã hội của dịch vụ. Yếu tố này yêu cầu công ty kiểm toán không những phải đảm bảo nhu cầu có được ý kiến độc lập của kiểm toán viên về tính trung thực của báo cáo tài chính mà cả giá của nhu cầu cũng được thoả mãn. Phí dịch vụ kiểm toán xác định trên cơ sở thời gian cần thiết để các kiểm toán viên thực hiện công việc kiểm toán và đơn giá giờ công làm việc của kiểm toán viên. Ngoại trừ những ảnh hưởng của yếu tố đơn giá giờ công làm việc của kiểm toán viên và sự hợp tác của đơn vị được kiểm toán với các kiểm toán viên trong quá trình kiểm toán thì việc xác định và giảm thiểu thời gian kiểm toán mà vẫn đảm bảo thu thập được đầy đủ các bằng chứng kiểm toán thích hợp sẽ là điều kiện để giảm thiểu giá dịch vụ cho khách hàng. Đó chính là sự thể hiện và là một trong các chỉ tiêu đánh giá chất lượng kiểm toán.

Kiểm soát chất lượng trong kiểm toán báo cáo tài chính tại Công ty trách nhiệm hữu hạn kiểm toán ASC - 6

1.2.2. Khái niệm, mục tiêu và vai trò kiểm soát chất lượng kiểm toán báo cáo tài chính

Có rất nhiều khái niệm về kiểm soát, theo các tác giả Schoderbek, Cosier và Aplin (1988), kiểm soát là họat động đánh giá và chỉnh sửa những lệch lạc từ tiêu chuẩn. Kiểm soát do đó bao gồm các hoạt động: thiết lập tiêu chuẩn, đánh giá thực tế bằng cách so sánh thực tế với tiêu chuẩn, và chỉnh sửa những lệch lạc từ thực tế so với tiêu chuẩn đã xác lập…

Các tác giả Jones và George (2003) cho rằng kiểm soát là quá trình nhà quản lý giám sát và điều tiết tính hiệu quả và hiệu lực vủa một tổ chức và các thành viên trong việc thực hiện các hoạt động nhằm đạt được mục tiêu của tổ chức…

Theo từ điển Tiếng Việt (1996) kiểm soát là sự xem xét để phát hiện, ngăn chặn những gì trái với qui định.

Từ những khái niệm trên có thể đi đến một định nghĩa chung về kiểm soát: Đó là quá trình đo lường, đánh giá và tác động lên đối tượng kiểm soát nhằm đảm bảo mục tiêu, kế hoạch của tổ chức được thực hiện một cách có hiệu quả. Cách thức này được áp dụng chung cho mọi hệ thống kiểm soát có thể là kiểm soát chất lượng, kiểm soát hành vi, kiểm soát lịch trình, kiểm soát sản phẩm hỏng, kiểm soát hàng tồn kho,… Kiểm soát chất lượng kiểm toán BCTC là một quá trình trong đó công ty kiểm

toán thực hiện nhiều thủ tục như hướng dẫn, giao việc, giám sát, kiểm tra công việc mà các kiểm toán viên thực hiện và kiểm tra các nhận xét, kết luận của nhóm kiểm toán trước khi phát hành báo cáo kiểm toán.

Đối với hoạt động kiểm toán, kiểm soát chất lượng kiểm toán có thể được hiểu là một hệ thống chính sách và biện pháp để nắm bắt và điều hành hoạt động kiểm toán đạt chuẩn mực chung. Hệ thống chính sách và biện pháp đó bao gồm: quan điểm về kiểm soát, các qui định nghiệp vụ kiểm toán và kiểm soát, cơ cấu tổ chức bộ máy kiểm soát, chính sách về nhân sự, các hoạt động kiểm tra, soát xét, thu thập thông tin, xác nhận....

Kiểm soát chất lượng kiểm toán được thực hiện từ trước trong và sau quá trình kiểm toán, do nhiều cấp độ kiểm soát tiến hành, với nhiều phương pháp kiểm soát khác nhau.

Mục tiêu chung của kiểm soát chất lượng kiểm toán BCTC là nhằm bảo đảm cho kiểm toán viên tuân thủ đúng chuẩn mực nghề nghiệp và chuẩn mực chất lượng theo quy định, nhằm tạo ra những sản phẩm kiểm toán đạt tiêu chuẩn chất lượng, đáp ứng yêu cầu của các đối tượng sử dụng kết quả kiểm toán. Các mục tiêu cụ thể như sau:

Một là, việc kiểm toán được thực hiện phù hợp với các chuẩn mực kiểm toán, quy trình kiểm toán, phương pháp chuyên môn nghiệp vụ kiểm toán và các quy chế, quy định khác trong hoạt động kiểm toán;

Hai là, các thành viên của đoàn kiểm toán hiểu rò và nhất quán về kế hoạch kiểm toán, tổ chức thực hiện kiểm toán, lập báo cáo kết quả kiểm toán;

Ba là, các ý kiến đánh giá, xác nhận, kết luận và kiến nghị kiểm toán có đầy đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp, phù hợp với các chuẩn mực đã quy định. Tất cả các lỗi, thiếu sót và các vấn đề không bình thường phải được nhận biết, lưu lại bằng văn bản và giải quyết đúng đắn hoặc báo cáo cho người có thẩm quyền cao hơn xem xét, xử lý;

Bốn là, đạt được các mục tiêu kiểm toán đã đặt ra; báo cáo kiểm toán phải bao gồm đầy đủ các ý kiến đánh giá, xác nhận, kết luận và kiến nghị kiểm toán liên quan đến cuộc kiểm toán;

Năm là, rút ra những kinh nghiệm nhằm cải thiện hoạt động kiểm toán trong tương lai. Những kinh nghiệm đó cần phải được nhận biết, ghi chép và phải được đưa vào kế hoạch kiểm toán kỳ sau và trong các hoạt động phát triển nhân sự.

Như vậy, kiểm soát chất lượng kiểm toán đã được thừa nhận như một chức năng của quản lý hoạt động kiểm toán, là trách nhiệm pháp lý, trách nhiệm chuyên

môn nghề nghiệp của mọi tổ chức kiểm toán, là một trong những chuẩn mực kiểm toán quan trọng trong hoạt động kiểm toán. Do vậy, việc thiết lập và duy trì một hệ thống kiểm soát chất lượng kiểm toán là một trong những nhiệm vụ không thể thiếu được của các tổ chức kiểm toán.

Thiết lập và duy trì cơ chế kiểm soát chất lượng kiểm toán chặt chẽ, có hiệu quả sẽ giúp các tổ chức kiểm toán đảm bảo với công chúng rằng, kết quả kiểm toán trước khi đến với công chúng đã được kiểm soát, chất lượng kiểm toán được bảo đảm, từ đó củng cố được lòng tin của công chúng vào chất lượng kiểm toán và đạo đức nghề nghiệp của kiểm toán viên. Ngược lại, nếu chất lượng kiểm toán không được kiểm soát, hoặc kiểm soát không có hiệu quả thì lòng tin của công chúng vào chất lượng kiểm toán và đạo đức nghề nghiệp của kiểm toán viên khó tránh khỏi sự lung lay.

Muốn đạt được các mục tiêu trên, chất lượng hoạt động kiểm toán phải được kiểm soát chặt chẽ. Việc kiểm soát không chỉ được thực hiện bởi chính các công ty kiểm toán mà còn được tiến hành bởi hiệp hội nghề nghiệp, Bộ tài chính hoặc các cơ quan chức năng có liên quan và hơn ai hết đó chính là sự kiểm soát của chính những người quan tâm đến đối tượng được kiểm toán.

Hiểu được điều đó, KTV và công ty kiểm toán cần nhận thức được các nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến chất lượng kiểm toán BCTC như: (i) tính độc lập của các KTV; (ii) Cơ cấu tổ chức và cơ chế phân cấp, phân nhiệm trong công ty kiểm toán;

(iii) Chính sách cán bộ, đào tạo và tiền lương; (iv) Các quy định về chuyên môn, nghiệp vụ; (v) Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp; (vi) kiểm tra, kiểm soát;

Vai trò của kiểm soát chất lượng trong kiểm toán báo cáo tài chính

Hoạt động kiểm toán ngoài việc đáp ứng niềm tin, kỳ vọng của những người quan tâm tới các thông tin tài chính của đơn vị được kiểm toán, nó còn có nhiều ý nghĩa quan trọng khác như hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ và các hoạt động được kiểm toán, nâng cao năng lực và hiệu quả trong hoạt động và hiệu năng trong quản lý… Chính vì vậy, kiểm soát chất lượng kiểm toán được khẳng định là một tất yếu khách quan và là một yêu cầu bắt buộc đối với hoạt động kiểm toán.

Kiểm soát chất lượng được hiểu là việc xây dựng và thực hiện các biện pháp để hướng hoạt động kiểm toán tới chất lượng và hiệu quả. Như vậy kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán là việc các công ty kiểm toán phải thực hiện các chính sách và thủ

tục kiểm soát chất lượng để đảm bảo tất cả các cuộc kiểm toán đều được tiến hành phù hợp với Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam hoặc chuẩn mực kiểm toán quốc tế được Việt Nam chấp nhận nhằm không ngừng nâng cao chất lượng của các cuộc kiểm toán.

Kiểm soát chất lượng kiểm toán, trước hết là nhằm đảm bảo kết quả kiểm toán đạt tiêu chí chất lượng, đáp ứng yêu cầu tin cậy của các đối tượng sử dụng các thông tin được kiểm toán. Ngoài ra, kiểm soát chất lượng kiểm toán còn đem lại nhiều lợi ích khác như:

Một là, cung cấp thông tin để các công ty kiểm toán xây dựng chính sách và thủ tục kiểm soát chất lượng kiểm toán; tổ chức và điều hành hoạt động kiểm toán.

Hai là, đánh giá trình độ, năng lực và đạo đức kiểm toán viên làm cơ sở cho việc đào tạo, bồi dưỡng và phân công nhiệm vụ phù hợp, tuyển dụng và đề bạt.

Ba là, đánh giá tính đầy đủ và hiệu lực của các chính sách và biện pháp kiểm soát chất lượng để còn sửa đổi, điều chỉnh và bổ sung kịp thời những nội dung cần thiết trong các quy định về chuyên môn, nghiệp vụ phù hợp với thực tiễn hoạt động kiểm toán.

Bốn là, thông qua kiểm soát chất lượng kiểm toán để xử lý kịp thời các sai sót và có biện pháp để phòng ngừa, ngăn chặn những sai sót đó có thể tái diễn trong tương lai.

Tóm lại, kiểm soát chất lượng kiểm toán giúp cho các kiểm toán viên và các công ty kiểm toán thấy rò thực trạng chất lượng kiểm toán; từ đó có biện pháp điều chỉnh, khắc phục những bất hợp lý, hoàn thiện chính sách quản lý, phương pháp làm việc, tăng cường đào tạo, nâng cao trình độ kiểm toán viên nhằm mục tiêu không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ do mình cung cấp.

1.2.3. Các loại hình kiểm soát chất lượng trong kiểm toán báo cáo tài chính

Các cấp độ kiểm soát chất lượng kiểm toán trong kiểm toán BCTC

Mục tiêu quan trọng của cuộc kiểm toán là kiểm toán viên đưa ra ý kiến về tính trung thực và hợp lý về thực trạng hoạt động tài chính của đơn vị được kiểm toán. Để thực hiện được điều đó, hoạt động kiểm toán đòi hỏi phải có tính độc lập cao. Đồng thời cùng với quá trình thực hiện kiểm toán là quy trình kiểm soát chất lượng ở các cấp độ khác nhau. Vì vậy, kiểm soát chất lượng kiểm toán phải được thực hiện đầy đủ ở mọi cấp độ. Công việc kiểm soát chất lượng kiểm toán được thực hiện theo các cấp độ:

Thứ nhất, kiểm soát từ kiểm toán viên chính (trưởng nhóm kiểm toán), Kiểm toán viên chính chịu trách nhiệm kiểm soát toàn bộ công việc của các kiểm toán viên và trợ lý kiểm toán trong nhóm kiểm toán mà mình phụ trách. Kiểm toán viên chính có thể phân công cho các kiểm toán viên khác trong nhóm kiểm toán soát xét một phần hoặc toàn bộ giấy tờ làm việc của trợ lý kiểm toán. Nhìn chung, công việc kiểm soát này được thực hiện ngay tại khách hàng và thực hiện thường xuyên trong thời gian thực hiện kiểm toán. Việc kiểm soát trong giai đoạn này chủ yếu tập trung vào việc đánh giá công việc của người được kiểm soát đã được thực hiện theo đúng chương trình kiểm toán đã xây dựng, các bằng chứng kiểm toán đã thu thập là thích hợp và đầy đủ đối với các cơ sở dẫn liệu của mỗi phần hành kiểm toán, các kết quả kiểm toán của từng phần hành hoặc từng chu trình kiểm toán trước khi kết thúc cuộc kiểm toán.

Thứ hai, kiểm soát từ chủ nhiệm kiểm toán, chủ nhiệm kiểm toán thực hiện kiểm soát công việc được thực hiện bởi kiểm toán viên chính bao gồm soát xét kế hoạch kiểm toán, soát xét các phần hành kiểm toán do kiểm toán viên chính thực hiện, soát xét các công việc thực hiện trong giai đoạn kết thúc kiểm toán và lập báo cáo như: đánh giá tính liên tục hoạt động của khách hàng, sự kiện sau ngày khoá sổ, tổng hợp kết quả kiểm toán, báo cáo kiểm toán và thư quản lý; kiểm tra việc lập báo cáo kiểm toán có tuân thủ theo các chuẩn mực nghề nghiệp hiện hành không… Tuỳ vào mức độ rủi ro và trọng yếu của từng cuộc kiểm toán, chủ nhiệm kiểm toán có thể thực hiện soát xét lại giấy tờ làm việc của kiểm toán viên khác và trợ lý kiểm toán.

Thứ ba, kiểm soát từ các chuyên gia (nếu có), trong trường hợp cần thiết, một số cuộc kiểm toán cần có sự kiểm soát của các chuyên gia trong các lĩnh vực đặc thù ngoài lĩnh vực kiểm toán. Ví dụ: lĩnh vực thuế, pháp luật, định giá tài sản…khi trên báo cáo tài chính có những thông tin liên quan đến các lĩnh vực trên và các thông tin đó là trọng yếu, có tính chất phức tạp, có rủi ro kiểm toán cao.

Thứ tư, kiểm soát của các thành viên ban giám đốc kiểm soát chất lượng kiểm toán (nếu có), đối với các cuộc kiểm toán có quy mô lớn, địa bàn rộng, kiểm toán nhiều năm, cuộc kiểm toán được đánh giá là có rủi ro cao, cuộc kiểm toán cho các công ty niêm yết hoặc các công ty hoạt động trong lĩnh vực đặc thù như hàng không, ngân hàng, bảo hiểm… thì hồ sơ kiểm toán cần phải được soát xét bởi thành viên ban giám đốc kiểm soát chất lượng kiểm toán. Đây là thành viên ban giám đốc hoàn toàn độc lập với nhóm kiểm toán và thực hiện soát xét hồ sơ kiểm toán. Thành viên BGĐ

kiểm soát chất lượng kiểm toán không cần phải soát xét, kiểm tra toàn bộ hồ sơ kiểm toán mà chỉ cần soát xét các phần hành được đánh giá là có rủi ro cao và ảnh hưởng trọng yếu đến báo cáo tài chính, soát xét sự đầy đủ và thích hợp của các bằng chứng kiểm toán, sự phù hợp của kết luận kiểm toán với kế hoạch kiểm toán.

Thứ năm, kiểm soát của thành viên ban giám đốc phụ trách khách hàng, tất cả các cuộc kiểm toán đều phải được một thành viên ban giám đốc phụ trách khách hàng phụ trách và thành viên đó là một trong hai người ký báo cáo kiểm toán. Vì vậy, thành viên ban giám đốc phụ trách khách hàng có trách nhiệm kiểm soát tất cả các cuộc kiểm toán do mình phụ trách. Cụ thể, kế hoạch kiểm toán phải được sự xem xét và phê duyệt của thành viên ban giám đốc trước khi thực hiện kiểm toán tại khách hàng, báo cáo kiểm toán phải được thành viên ban giám đốc soát xét, phê duyệt trước khi phát hành. Tuỳ thuộc vào từng cuộc kiểm toán cụ thể, mức độ thực hiện kiểm soát của cấp bậc này có thể khác nhau.

Các loại kiểm soát chất lượng kiểm toán trong kiểm toán BCTC

Tuỳ theo từng tiêu thức phân loại mà có những loại kiểm soát chất lượng kiểm toán khác nhau. Thông thường có những tiêu thức phân loại kiểm soát chất lượng kiểm toán như sau:

Theo chủ thể kiểm soát, thì kiểm soát chất lượng kiểm toán có kiểm soát từ bên trong (nội kiểm) và kiểm soát từ bên ngoài (ngoại kiểm).

Đối với kiểm soát chất lượng kiểm toán từ bên trong, là kiểm soát chất lượng kiểm toán của bản thân các công ty kiểm toán. Việc kiểm soát chất lượng kiểm toán là công việc bắt buộc của các công ty này để đảm bảo chất lượng của hoạt động kiểm toán tuân theo đúng các quy định, chuẩn mực và quy trình kiểm toán đã đề ra.

Đối với kiểm soát chất lượng kiểm toán từ bên ngoài, là việc kiểm soát chất lượng kiểm toán từ bên ngoài được thực hiện bởi một đơn vị khác. Đơn vị khác ở đây có thể được hiểu là sự kiểm soát của các cơ quan chức năng như Bộ Tài chính hoặc các tổ chức nghề nghiệp như Hội kế toán kiểm toán Việt Nam hoặc sự kiểm tra của các tập đoàn kiểm toán quốc tế đối với các công ty là thành viên…

Theo thời điểm kiểm soát, thì kiểm soát chất lượng kiểm toán có 2 loại: kiểm soát trong quá trình thực hiện và kiểm soát sau quá trình thực hiện kiểm toán.

Đối với kiểm soát chất lượng kiểm toán trong quá trình thực hiện, việc kiểm soát này thường được thực hiện theo quy trình kiểm soát chất lượng kiểm toán của

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 21/07/2022